Đăng trong Tiệm cơm nhỏ thành Trường An - Bánh Anh Đào

Tiết gì ăn gì?

1. Lập Xuân

02.01. Lập Xuân

Có cách gọi ăn bánh xuân là “cắn xuân”, thường sẽ dùng hộp hoặc đĩa tròn để đựng, bánh bày ở giữa, xung quanh bày nhân bánh, người xưa gọi là đĩa xuân hay đĩa ngũ tân. Phan Vinh Bệ trong “Đĩa xuân – Tháng giêng” viết: Ngày đầu xuân dâng đĩa xuân. Dù là nhà nghèo khó cũng phải có thịt gà thịt lợn cắt nhỏ, nướng bánh bột mì, cuốn rau xà lách, hẹ xanh, hành lá, kèm với cà rốt sống, gọi là cắn xuân.

 

2. Vũ Thủy

02.02. Vũ Thủy

Tiết này là tiết mưa rơi, nhiệt độ dần tăng, băng tuyết tan ra. Người ta ăn bánh râu rồng để tưởng nhớ Thiên Long đã từng vì cho mưa xuống trong dịp đại hạn để giúp nông dân mà bị phạt đè dưới chân núi.

24.02. Vũ Thủy

Tiết Vũ Thủy, ngày này con gái đã lấy chồng về thăm cha mẹ, biếu một hũ thịt kho tàu. Tháng giêng, trời đầy nước. Đầu xuân thuộc mộc, nhưng muốn sinh mộc ắt phải có thủy, cho nên sau Lập Xuân là Vũ Thủy. Vả lại gió đông thổi, tuyết cũng tan, thì cũng sinh ra mưa vậy.

 

3. Kinh Trập

Kinh Trập

Tiết tháng hai, vạn vật bắt đầu chấn, chấn tức là sấm, người xưa gọi là Kinh Trập. Kinh Trập sấm dậy, sâu bọ “sợ mà bò ra”, mồng hai tháng hai, người ta bỏ các loại hạt như đậu tương, hạt vừng vào trong nồi rang lên, tạo thành tiếng đôm đốp, gọi là “nổ long nhãn”, cầu mưa thuận gió hòa. Nam nữ già trẻ tranh nhau ăn đậu tương rang chín, gọi là “ăn trùng”, ngụ ý là cả người lẫn vật vô bệnh vô tai, hoa màu không sinh côn trùng có hại.

02.03. Kinh Trập

“Qua Kinh Trập, trăm trùng sống lại”, qua ngày này, không khí ấm lên, động vật ngủ đông cũng lục tục tỉnh lại. Người Bắc Kinh xưa có thói quen ăn món thịt cuộn tẩm bột rán, ngụ ý là “côn trùng chết, người trở mình”.

 

4. Xuân Phân

02.04. Xuân Phân

Tiết Xuân Phân, ngày đêm dài bằng nhau. Nông dân có tập tục ăn bánh trôi, còn dùng que trúc xâu bánh trôi không có nhân đặt cạnh ruộng, gọi là “miệng dính tàn nhang”, tránh cho tàn nhang phá hỏng hoa màu.

24.04. Xuân PhânNgày Xuân Phân, cũng là ngày âm dương trộn đều, cho nên ngày đêm đều nóng lạnh như nhau. Trước đây trong dân gian có tập tục “Xuân Phân ăn rau xuân”, rau xuân là một loại rau dền dại, còn được gọi là xuân bích ngải. Rau xuân hái về thường được đun sôi với cá thái lát, gọi là “canh xuân”.

 

5. Thanh Minh

02.05. Thanh Minh

Tiết Thanh Minh, dân gian có tập tục đoàn viên tế tự. Lúc này vạn vật sinh trưởng tốt tươi, thanh khiết lại trong lành, người xưa gọi là Thanh Minh. Vùng Giang Nam có phong tục ăn thanh đoàn tức bánh màu xanh, ngọt mà không ngấy, béo mà không ngậy, là món ăn để cúng tế tổ tiên. Phần lớn dùng lá ngải giã nát lấy nước trộn cùng bột nếp nặn thành bánh, nhân bánh dùng bột đậu trộn đường mịn. Bánh chín lấy ra khỏi lồng hấp thì dùng chổi lông phết dầu lên mặt bánh. Bánh màu xanh biếc như ngọc, mềm dẻo dai ngon, mùi thơm ngát xông vào mũi, ăn ngọt mà không ngấy, béo mà không ngậy.

6. Cốc Vũ

24.06. Cốc Vũ

Mười lăm ngày sau Thanh Minh, sao Đẩu chỉ Thần, xưng là Cốc Vũ, tiết giữa tháng ba, mưa rào tưới ngũ cốc tốt tươi. Từ xưa Cốc Vũ là tiết hái trà, cũng gọi là nhị xuân trà. Mùa xuân nhiệt độ vừa phải, lượng mưa dồi dào, cây cối đâm chồi nảy lộc, mầm xanh mơn mởn, không khí tươi mát.

02.06. Cốc Vũ

Ở miền nam Cốc Vũ có tập tục hái trà, truyền thuyết nói trà hái ngày Cốc Vũ uống vào sẽ thanh hỏa, trừ tà, mắt sáng, cho nên dù thời tiết ngày Cốc Vũ ra sao thì người ta cũng sẽ vào núi hái một ít lá trà tươi về uống. Ở miền bắc Cốc Vũ có tập tục ăn hương thung, lúc này hương thung vị thuần, ngon miệng lại có giá trị dinh dưỡng cao, có câu “Trước (Cốc) Vũ hương thung non như tơ”.

7. Lập Hạ

24.07. Lập Hạ

Lập, tức là xây. Một ngày trước Lập Hạ trẻ con sang nhà bên xin gạo, gọi là “gạt gạo ngày hạ”. Đào một ít măng, “trộm” chút đậu tằm, tỏi tươi, ngày Lập Hạ lấy gạo gạt được ngày hôm trước mang ra ngoài trời nấu cùng các nguyên liệu khác, trên cơm bỏ thêm các loại mơ xanh, anh đào, chia cho những nhà hôm trước cho gạo, ngụ ý là “ngũ cốc được mùa”, quanh năm yên bình khỏe mạnh.

02.07. Lập Hạ

Tiết Lập Hạ là thời điểm tốt để ăn trứng muối. Trứng vịt Lập Hạ gọi là “bổ hạ”, giúp người ta mùa hè không gầy đi, không giảm cân, đủ sức đủ lực làm việc. Đông y nói ăn trứng vịt muối vào mùa hè giúp người ta có sức khỏe, là lựa chọn hàng đầu để bổ sung canxi và sắt.

8. Tiểu Mãn

24.08. Tiểu Mãn

Giữa tháng tư. Tiểu Mãn, vật nhỏ đủ tràn đầy. Tiết Tiểu Mãn ăn rau cúc sữa. Rau cúc sữa (rau đắng), trong đắng có ngọt, tươi mát, ngọt miệng, thanh nhiệt, lọc máu, giải độc. Người Ninh Hạ thích chần rau cúc sữa với nước sôi, cho thêm muối, giấm chua, dầu ớt hoặc tỏi giã làm rau trộn, tươi mát lại cay nồng.

02.08. Tiểu Mãn

Gió xuân thổi, rau cúc sữa tốt tươi, bãi đất hoang trở thành kho lương thực. Trước sau Tiểu Mãn là tiết ăn rau cúc sữa, rau cúc sữa cũng là một trong những loại rau dại được người Trung Quốc ăn sớm nhất.

9. Mang Chủng

02.09. Mang Chủng

Tiết Mang Chủng vừa đúng lúc mơ chín, quả mơ chứa nhiều axit hữu cơ tự nhiên và giàu chất khoáng, có tác dụng làm sạch đường ruột, trung hòa axit dạ dày, tăng cường sức miễn dịch.

10. Hạ Chí

24.10. Hạ Chí

Mặt Trời về phía bắc, ngày dài vô cùng, đêm ngắn lại, gọi là Hạ Chí. Chí, tức là vô cùng. Hạ Chí là ngày có ban ngày dài nhất trong năm. Người phương bắc có tập tục “đông chí sủi cảo hạ ăn mì”, ngày này khí trời nóng bức, ăn chút đồ nguội có thể thanh nhiệt khai vị, lại cũng không vì nguội mà ảnh hưởng đến sức khỏe. Ngày này các quán mì rất đông khách.

02.10. Hạ ChíỞ vùng tây bắc, ngày này người ta ăn bánh ú, cũng dùng tro hoa cúc để phòng lúa mì bị sâu bệnh. Ở miền nam có nơi ăn cháo lúa mì, buổi trưa thì ăn vằn thắn.

 

11. Tiểu Thử

24.11. Tiểu Thử

Tiết tháng sáu. Thử, tức là nóng, đầu tháng nắng nhỏ, cuối tháng nắng to, ngày này trời còn nắng nhỏ. Dân gian có tập tục “tiểu thử ăn ngó sen”. Bởi vì đồng âm “ngẫu”, ngó sen hàm ý hôn nhân hạnh phúc. Về dược tính, ngó sen có công hiệu thanh nhiệt, thải độc, lọc máu, làm sạch đường ruột, kiện tỳ, khai vị.

02.11. Tiểu Thử

Vùng Giang Nam có tập tục ăn ngó sen ngâm mật, dùng lửa nhỏ hầm ngó sen tươi tới khi mềm nhừ, cắt thành miếng, thêm mật vào trộn lên ăn.

 

12. Đại Thử

24.12. Đại Thử

Thử, tức là nóng, đầu tháng nắng nhỏ, cuối tháng nắng to, ngày này trời nắng lớn. Người Phủ Điền (Phúc Kiến) có tập tục ăn trái vải, thịt dê và cơm rượu vào ngày này, gọi là “đón Đại Thử”. Lúc này vừa qua mùa mưa dầm không lâu, trời u ám, dễ vì nóng ẩm mà bị tà ma quấy nhiễu, ăn cơm rượu xua bớt ẩm ướt. Lấy cơm trộn với gạo trắng lên men kĩ thành cơm rượu, chia thành từng cục, thêm đường đỏ nấu lên.

02.12. Đại Thử

Đại Thử là tiết nóng nhất trong năm. Dân gian có câu “Tháng sáu Đại Thử ăn tiên thảo, sống như thần tiên không biết lão”. Tiên thảo là một trong những món ăn vặt nổi tiếng của Đài Loan, có thể phối hợp với nhiều loại nguyên liệu khác nhau, chế biến thành đồ ngọt, là món ăn tốt giải nhiệt vào mùa hè.

 

13. Lập Thu

24.13. Lập Thu

Lập Thu, tiết tháng bảy. Thu, cũng tức là thu hoạch, vật cũng vì thế mà thu lại. Một ngày trước Lập Thu thì chuẩn bị dưa lạnh, chưng cà, sắc nước hương nhu để trong sân một đêm, sáng Lập Thu lấy ăn, có tác dụng dưỡng sinh. Từ thời Đường – Tống bắt đầu có phong tục Lập Thu ăn đậu đỏ, nuốt từ bảy tới mười một hạt đậu đỏ cùng với nước giếng, lúc ăn thì quay mặt về hướng tây, nghe nói là cả mùa thu sẽ không bị kiết lỵ.

02.13. Lập Thu

Tiết Lập Thu, nhiều nơi có tập tục “cắn thu” hoặc “gặm thu”, chính là ăn dưa hấu, ý là mùa hè nóng bức, lúc gặp lập thu thì phải cắn nó. Dưa hấu nhiều nước, là thứ tốt để giải nhiệt.

 

14. Xử Thử

24.14. Xử Thử

Xử, tức là đi, nắng hè chỉ được đến ngày này mà thôi. Khí trời dần khô hanh, trong người thì phế kinh đang làm việc, đông y cho rằng “khí trong phổi quá thịnh có thể khắc gan, nên dùng nhiều đồ chua để củng cố gan”.

02.14. Xử Thử

Vịt nấu ngọt tính lạnh, cách làm vịt đa dạng, có vịt luộc, vịt nấu chanh, vịt nấu gừng, vịt nướng, vịt lá sen, vịt óc chó,… Đến giờ ở Bắc Kinh vẫn còn giữ truyền thống tiết Xử Thử ăn vịt nấu hoa bách hợp, chọn hoa bách hợp cuối mùa, thêm các loại nguyên liệu trần bì, mật ong, hoa cúc nấu cùng, mùi vị thơm ngon ngọt lành.

 

15. Bạch Lộ

24.15. Bạch Lộ

Khí lạnh ngưng thành sương, thu thuộc kim, kim sắc trắng, trắng cũng là màu của sương, trời cũng bắt đầu lạnh. Uống “rượu bạch lộ” là truyền thống dân gian. Rượu làm từ các loại ngũ cốc như gạo nếp, cao lương. Rượu hâm nóng, vị hơi ngọt. Tinh phẩm của rượu bạch lộ là “rượu Trình”, bởi vì lấy nước sông Trình cất thành mà có tên này, là rượu cống phẩm.

02.15. Bạch Lộ

Tiết Bạch Lộ, vùng Phúc Châu có câu nói “Bạch Lộ phải ăn long nhãn”, bảo rằng ngày Bạch Lộ ăn long nhãn có thể đại bổ, bởi vì long nhãn có công dụng bổ tỳ, dưỡng huyết, an thần, nhuận da, còn có thể trị thiếu máu, mất ngủ, suy nhược thần kinh và nhiều loại bệnh tật khác.

 

16. Thu Phân

24.16. Thu Phân

Tiết Thu Phân, âm dương chia đều, cho nên ngày đêm nóng lạnh như nhau. “Phân” trong “Thu Phân” ý là “nửa”. Mặc dù không có mỹ thực đặc trưng cho tiết này nhưng có câu “Tiết thu phân ăn hoa cúc vàng”.

02.16. Thu Phân

Tiết Thu Phân ăn rau thu là tập tục ở vùng Lĩnh Nam. “Rau thu” là rau dền dại, tiếng địa phương gọi là “bích ngải thu”. Tới ngày Thu Phân, cả thôn đều đi hái rau thu. Rau thu có hai loại xanh và đỏ, màu sắc đối lập nhau. Rau thu hái về thường “nấu sôi lên” cùng cá thái lát, gọi là “canh thu”. Có bài vè nói “Canh thu sạch tạng, xối rửa ruột gan; toàn gia già trẻ, bình an kiện khang”. Mùa thu, mọi người đều mong gia đình bình an, thân thể khỏe mạnh.

17. Hàn Lộ

24.17. Hàn Lộ

Mười lăm ngày sau Thu Phân, Đẩu chỉ Tân, gọi là Hàn Lộ, nghĩa là sương lạnh như sắp ngưng kết. Hàn Lộ ý là vì trời ngày càng lạnh mà vạn vật dần tiêu điều. Người xưa nói trời thu khô hanh, thích hợp ăn vừng để tiêu hanh, thời trước Hàn Lộ có tập tục “ăn vừng”. “Bánh vừng Hàn Lộ” lấy vừng làm nhân, bên trong thêm vừng trắng, bên ngoài rắc vừng đen, ăn xốp giòn, ôn nhuận giải khô.

02.17. Hàn Lộ

Tiết Hàn Lộ gần sát Tết Trùng Cửu, vì vậy dân gian có tập tục Hàn Lộ đăng cao ăn bánh hoa (hoa cao). Vì “cao” trong “hoa cao” đồng âm với “cao” trong “đăng cao”, cho nên ăn bánh hoa có ngụ ý “từng bước thăng cao”. Bánh hoa là món bánh ngọt truyền thống ngày Trùng Cửu, được biến hóa và cải tiến, trở thành đủ loại kiểu dáng, nhưng phần lớn bánh hoa đều có hai hoặc ba tầng, ở giữa xen lẫn các loại mứt hoa quả và hạt khô, sau khi làm xong thì hấp chín là ăn được.

 

18. Sương Giáng

02.18. Sương Giáng

Ở một số địa phương của Trung Quốc có tập tục tiết Sương Giáng ăn trái hồng. Hồng không chỉ có thể chống lạnh giữ ấm mà còn có thể tu bổ gân cốt, là một món vô cùng hợp với tiết Sương Giáng.

 

19. Lập Đông

02.19. Lập Đông

Lập Đông ăn sủi cảo. Người Bắc Kinh xưa nói: Lập đông tu đông, không tu miệng không. Lập Đông có tập tục ăn sủi cảo, còn có câu “bắc ăn sủi cảo nam ăn vịt”. Sủi cảo gần âm với “giao mùa”, cho nên vào thời điểm thu đông giao nhau này, sủi cảo là thứ không thể thiếu.

 

20. Tiểu Tuyết

02.20. Tiểu Tuyết

Ở phía nam có một số nơi có tập tục ăn bánh giầy vào ngày Tiểu Tuyết. Bánh giầy là một loại đồ ăn làm từ gạo nếp hấp chín giã nhuyễn, là mỹ thực lưu hành ở một số vùng phía nam Trung Quốc. Tục ngữ nói “sáng tháng mười, nấu bánh giầy” là chỉ việc cúng tế. Bánh giầy nhuyễn mịn, dễ tiêu hóa hơn gạo nếp, còn có thể hút mỡ giảm béo, có thể nói là mỹ vị nhân gian.

 

21. Đại Tuyết

24.21. Đại Tuyết

Tiết tháng mười một, Đại Tuyết, ngày này tuyết lớn. Tuyết rơi, nhiệt độ hạ xuống, cũng là thời gian tốt nhất để bắt đầu muối thịt. Người Nam Kinh có câu “Tiểu Tuyết muối dưa, Đại Tuyết muối thịt”. Trước kia muối thịt là vì sợ mùa đông không có rau ăn, cho nên vừa tới Đại Tuyết thì nhà ai cũng vội vàng muối “đồ mặn”. Thịt muối treo dưới mái hiên phơi nắng làm món ăn mừng năm mới.

02.21. Đại Tuyết

Tương truyền thời cổ có một loại quái thú tên là “Niên”, cứ tới giao thừa sẽ xuất hiện đánh người. Mọi người vì tránh né quái thú mà cứ tới cuối năm là sẽ không bước chân ra khỏi nhà, trước khi “Niên” tới phải dự trữ rất nhiều thức ăn. Thịt tươi không giữ được lâu, mọi người mới nghĩ ra phương pháp muối thịt thế này.

 

22. Đông Chí

24.22. Đông Chí

“Sách lễ nghi thời Hậu Hán” viết: Trước sau Đông Chí, quân tử an thân tĩnh thể, quan lại không nhận việc… Tiết Đông Chí người xưa đều nghỉ ngơi.

02.22. Đông Chí

Tiết Đông Chí có tập tục ăn sủi cảo hoặc bánh trôi. Sủi cảo tượng trưng cho đoàn viên, là lựa chọn hàng đầu trên bàn ăn ngày Đông Chí. Ở miền nam có câu “ăn bánh trôi lại thêm một tuổi”, tập tục Đông Chí ăn bánh trôi thịnh hành hơn. Bánh trôi ngày Đông Chí còn gọi là “viên Đông Chí”, có thể dùng để cúng tế tổ tiên, cũng có thể để tặng bạn bè thân thích.

 

23. Tiểu Hàn

24.23. Tiểu Hàn

02.23. Tiểu Hàn

Thời trước, người Nam Kinh khá coi trọng tiết Tiểu Hàn. Thường người ta sẽ nấu chung gạo nếp với rau cải thìa thêm một ít gừng băm nhỏ, cũng có thêm thịt muối hoặc lạp xưởng thái nhỏ, vịt muối thái sợi, vô cùng thơm và ngon miệng.

24. Đại Hàn

02.24. Đại Hàn

Dân gian có tập tục Đại Hàn ăn gạo nếp, bởi vì gạo nếp bổ dưỡng thân thể, ăn vào ấm người, dưỡng dạ dày. Cách chế biến gạo nếp điển hình nhất chính là xôi bát bảo. Người ta cho rằng xôi bát bảo bắt nguồn từ tranh bát bảo thời cổ đại, ban đầu là trộn xôi nếp đã hông chín với đường và mỡ lợn, cho thêm các loại hạt như hạt sen, táo đỏ, mứt tắc, cùi nhãn, mật anh đào, mật bí đao, hạt bo bo, hạt dưa, lại rắc thêm các sợi mứt mơ. Mật anh đào, mật bí đao tượng trưng cho sự ngọt ngào… Mỗi loại hạt khác cũng đều mang ngụ ý tốt đẹp.

 

Đăng trong Tiệm cơm nhỏ thành Trường An - Bánh Anh Đào

Tiệm cơm – Chương 109

Ngoại truyện 2

1 – Chuyện sinh con

Phu thê Lâm thị tới Vị Thủy ở đã là mùa hè năm sau, bụng Thẩm Thiều Quang đã hơi nhô lên, trong đó là một đứa bé chừng năm tháng.

Hiện giờ thì rốt cuộc nàng cũng đã có chút nét của mỹ nhân đời Đường, mặc dù mới mang thai năm tháng nhưng đã mập hơn hẳn.

Thẩm Thiều Quang nhéo phần thịt bên hông, nhếch miệng lên có vẻ không vui lắm.

Lâm Yến an ủi nàng: “Như thế này cũng rất tốt.” Để tăng thêm tính tin cậy còn bồi thêm một câu: “Mập một chút mới hợp. Trước kia quá gầy, khiến người ta thấy đau lòng.”

Thẩm Thiều Quang cười lườm hắn một cái, bây giờ Lâm lang quân của chúng ta gần như chỉ cần mở miệng ra là lời ngon tiếng ngọt tuôn trào, hoàn toàn không giống như trước kia, muốn nói cũng phải có tình có cảnh.

Thẩm Thiều Quang dù chê bai thịt trên người nhưng lại không quản được cái mồm với dạ dày của mình. Người khác mang thai thì ăn cái gì nôn cái đó, Thẩm Thiều Quang thì lại là dạ dày không thể để trống, chỉ có ăn thì mới không nôn.

Nàng lại cực kỳ thèm ăn, nhớ nhất là mấy thứ của kiếp trước, càng không ăn được thì lại càng thèm.

Ví dụ như là ớt.

Cá nấu ớt, cá nấu canh chua, cá hầm ớt; gà nấu ớt, móng gà ngâm ớt, gà xào ớt; thịt xào ớt, tôm xào ớt, ruột già xào ớt… Cho dù chỉ là một bát miến chua cay thôi cũng được.

This slideshow requires JavaScript.

Thẩm Thiều Quang nghĩ có lẽ là bởi vì đang trong thời kỳ đặc biệt, hormone phân bố khác thường, có chút chứng trầm cảm trong thời gian mang thai, vì một bát miến chua cay mà nhớ tới phát khóc.

109 miến chua

Nghe ái thê miêu tả là phải có cay, có chua, có vừng rang, đậu chiên, dùng nước hầm xương nấu lên, phải có thịt băm, cho thêm một ít bột hồ tiêu, còn phải có rau thơm, Lâm Yến gật đầu, tự mình đi xuống bếp, mãi một hồi lâu sau mới bưng khay đưa tới cho nàng một bát “miến chua cay” phiên bản dành riêng cho phụ nữ có thai thời Đường.

Miến thì làm từ đậu xanh, nấu hơi quá lửa; vị cay là của sẻn và tỏi giã, số lượng rất ít, cho chỉ để cho có; giấm chua cũng chỉ cho một ít để có chút vị chua; nước canh, thịt băm và hạt đậu thì không bị cắt xén…

Bát miến chua cay không chua cũng không cay, từ trong ra ngoài đều toát lên vẻ “công chính bình thản” này mặc dù có thể nói là kẻ lạc loài của miến chua cay, nhưng cũng trị được chứng trầm cảm trong thời gian mang thai của Thẩm Thiều Quang.

Lấp đầy dạ dày rồi, ngả người xuống chiếu trúc, Thẩm Thiều Quang lại vui vẻ.

Lâm Yến nhìn nàng, hết sức đau lòng, từ lúc có thai tới giờ, A Tề thường xuyên ngủ không ngon, lại cực kỳ sợ nóng, mặc dù khẩu vị không tệ nhưng lại không thể ăn không ít thứ. Nghe nói nữ nhân vào khoảng thời gian này tâm trạng rất bất ổn, mặc dù A Tề thoải mái rộng lượng, nhưng chắc hẳn đôi lúc cũng là tự nhẫn nhịn. Tiếc rằng nhạc mẫu không còn…

Lâm Yến xoa tóc nàng.

Thẩm Thiều Quang nhìn hắn, thế này là thế nào? Người chuẩn bị làm bố cũng có chứng trầm cảm trước sinh sao?

Thẩm Thiều Quang nổi ý đùa hắn: “Lang quân, chàng nói thử xem, lúc đó nghĩ thế nào mà lại sai người giả bộ đi tặng chiếu trúc cho ta?”

“Thấy nàng sợ nóng nên muốn tặng cho nàng một tấm. Lại sợ nàng không nhận nên mới đưa ra kế này.” Lâm Yến không hề ngại ngùng nói ra sự thật.

“Thế tại sao không giống lúc tặng bình phong ấy, mượn danh của bà nội?”

“Một cách dùng nhiều lần sẽ mất linh.”

Thẩm Thiều Quang bật cười.

“Tiếc là A Tề của ta còn sành sỏi hơn cả người trong bộ Hình nữa.” Lâm Yến mỉm cười, lúc đó cho rằng sẽ còn phải kéo dài lâu nữa, nào có nghĩ tới khoảng thời gian tốt đẹp như bây giờ.

Thẩm Thiều Quang đắc ý: “Đó là đương nhiên rồi! Lúc đó ta đã sáng suốt mà cảm thấy ngay là việc này “không phải gian manh ắt phường trộm cắp”, ban đầu ta còn tưởng là “trộm”, ai mà ngờ được…” Thẩm Thiều Quang liếc nhìn Lâm Yến đầy ẩn ý.

Lâm Yến nằm xuống cẩn thận ôm ái thê, hôn nàng, cũng không dám làm gì khác nữa, trong lòng tính thử, còn phải đợi lâu lắm.

Làm nũng chán rồi, Thẩm Thiều Quang ngồi dậy: “Đi, chẳng mấy khi tới Vị Thủy, chúng ta ra ngoài đi dạo một lát.”

Lâm Yến cũng ngồi dậy, giúp nàng đội mũ có màn che nắng, nắm tay nàng đi ra ngoài, chậm rãi đi tới cạnh bờ sông Vị.

“Lang quân, ăn một chút ốc đồng sẽ không sao chứ?”

“Thứ này kỳ lạ, tốt nhất không nên ăn.”

“Thế lươn thì sao?”

“Lươn tính ôn, nàng ăn sợ là sẽ khô.”

“Vậy còn ba ba?”

Lâm Yến đã có đôi chút không nỡ: “Ba ba hoạt huyết… A Tề, chúng ta ăn chút canh cá diếc được không? Hôm nay trong lúc nàng ngủ ta đi câu được mấy con, đã bảo nhà bếp hầm lên rồi, nấu canh sữa, lấy nước canh nấu bánh bột cho nàng, cho thêm một ít rau mới hái trong vườn.”

109.2

Thẩm Thiều Quang gật đầu: “Cũng được.” Tài miêu tả đồ ăn của lang quân cũng sắp bắt kịp ta rồi, nghe hắn nói thế mà lại cảm thấy mì canh cá diếc cũng ngon. Nhưng mà vẫn muốn ăn ốc đồng xào cay, ba ba hầm gà, lươn xào tái! Thôi chờ sinh con xong vậy…

Cả Thẩm Thiều Quang và Lâm Yến đều hy vọng nhanh chóng tới thời gian sinh nở. Qua mùa hè nóng bức, cuối cùng cũng có chút gió thu, lại chịu đựng qua hai tháng thu rồi mãi cũng tới lúc thu tàn, sáng tối trời đều trở lạnh, ngày dự sinh cũng đã đến, thế nhưng vẫn không có động tĩnh gì.

Lâm Yến lo lắng mời thái y tới xem mấy lần, lần nào thái y cũng nói rất tốt, bảo chờ thêm chút nữa. Phúc Tuệ trưởng công chúa, phu nhân của Lý tướng cũng đều tới thăm, phu nhân của Thẩm Trực thì chuyển luôn tới.

Cứ như vậy tầm nửa tháng, buổi sáng Thẩm Thiều Quang theo lệ thường đi dạo trong vườn, đột nhiên thấy khác lạ, cuối cùng cũng rục rịch.

Thẩm Thiều Quang lại vẫn bình tĩnh, đi vào phòng sinh đổi y phục, lại ăn một bát kem bơ lấy sức, thỉnh thoảng còn nói đùa mấy câu với bá mẫu, nhưng dần dần, cơn đau ập đến từng cơn từng cơn một, nàng không nói cười nổi nữa.

Lâm Yến hạ triều, nhận được tin thì tự mình đi mời thái y, sau đó không kịp đợi, tự đánh ngựa về nhà trước.

Bà nội ngồi trong nhà chính, nhìn cháu trai đang vội vàng đi tới: “Chớ vội, chớ vội…”

Lâm Yến siết chặt nắm tay, đứng ngoài cửa nghe.

Trong phòng có tiếng bá nhạc mẫu và bà đỡ nói dùng sức, có tiếng đồ đạc va vào nhau, có tiếng nước, nhưng không hề có tiếng của A Tề.

Trái tim Lâm Yến thắt chặt, A Tề sẽ không sao chứ? Nữ nhân sinh nở phải chịu cơn đau vô hạn, xưa nay A Tề lại yếu ớt…

“A Tề, A Tề…”

Nghe được giọng hắn, Thẩm Thiều Quang đột nhiên muốn bật khóc, tên khốn này giờ mới về!

Không nghe thấy nàng trả lời, trái tim Lâm Yến nặng trĩu, đẩy thẳng cửa đi vào. Giang thái phu nhân không kịp gọi hắn, vú già canh cửa lại không dám ngăn, Lâm Yến nhanh chóng vòng qua bình phong.

“Lang tử ngươi đi vào làm gì?” Phu nhân Thẩm Trực ngăn hắn lại.

Liếc mắt nhìn bức màn nửa che nửa kéo và cả máu trong chậu đồng khiến người ta nhìn mà phát hoảng: “A Tề…”

“Vẫn ổn.” Phu nhân Thẩm Trực nói.

“Ta không sao!” Thẩm Thiều Quang rên rỉ một tiếng.

Lâm Yến thở phào, cúi người vái chào phu nhân Thẩm Trực một cái rồi lui ra ngoài.

Giang thái phu nhân lắc đầu, lấy ngón tay chọc hắn một cái.

“A bà, ta đi ra ngoài nghênh đón thái y.”

Giang thái phu nhân gật đầu.

Cuối cùng cũng không cần tới thái y, vừa qua chính ngọ thì nghe được tiếng trẻ con khóc, trong phòng truyền tới tiếng chúc mừng của bà đỡ: “Nương tử, là một tiểu lang quân.”

Bên ngoài, Giang thái phu nhân niệm kinh, Lâm Yến thì lại là một lang quân con nhà dòng dõi vừa nho nhã vừa trang nghiêm.

Hắn cười nói với thái y một tiếng vất vả, nói sẽ đích thân đi bái tạ, cũng mời tới uống chén rượu nhạt hôm tiệc bách thối.

* Tiệc bách thối là bữa tiệc mừng đứa bé được một trăm ngày tuổi. [tác giả]

2 – Tiệc bách thối

Cũng giống quan niệm lấy tên xấu cho dễ nuôi ở thời hiện đại, một gia đình dòng dõi như Lâm gia cũng chỉ gọi hài tử là đại lang đại lang, ngay cả nhũ danh cũng không lấy. Tiệc bách thối của tiểu đại lang Lâm gia cũng không quá long trọng, nhưng người tới dự lại đều rất cao quý, nào tướng công, thượng thư, thị lang, đều là công khanh áo đỏ áo tím trong triều… Người tặng lễ tới thì càng nhiều hơn, ngay cả hoàng đế cũng sai hoạn quan tặng một phần lễ tới.

Ở hậu trạch thì là Phúc Tuệ trưởng công chúa và các phu nhân. Thẩm Thiều Quang ôm hài tử ra cho các phu nhân xem. Một trăm ngày, đã qua giai đoạn đỏ hỏn khó coi, da dẻ trắng trẻo mập mạp, phụ mẫu đều đẹp mắt thì sao hài tử có thể không đáng yêu?

Các phu nhân lớn tuổi đều muốn ôm một cái, các phu nhân trẻ tuổi cũng muốn trêu chọc một chút, Lâm tiểu đại lang nhăn mày lại, vẻ mặt nghiêm túc.

Phúc Tuệ trưởng công chúa bật cười, nói với Thẩm Thiều Quang: “Chẳng giống ngươi điểm nào.”

Phu nhân Lý Duyệt cũng cười nói: “Y như đúc từ một cái khuôn với a gia của hắn.” Vừa cười vừa nói với Giang thái phu nhân: “Chẳng bao nhiêu năm nữa lại thành một thám hoa lang rồi.”

Thẩm Thiều Quang thì biết đây là đoạn mở đầu cho màn khóc lóc của tiểu tổ tông, quả nhiên: “Oa…”

Phu nhân Lý Duyệt vội vàng xoa lưng, giao lại hài tử cho Thẩm Thiều Quang.

Thẩm Thiều Quang cười nói: “Có lẽ là hắn đói bụng rồi.”

Các phu nhân đồng loạt nói: “Mau cho bú thôi, mau cho bú thôi, chớ để bị đói.”

Thẩm Thiều Quang cúi người với trưởng công chúa và các vị trưởng bối, gật đầu với mấy vị phu nhân trẻ tuổi, sau đó dẫn tỳ nữ vú già trở lại phòng trong.

Trong số các phu nhân trẻ tuổi có một vị có thể coi như là cố nhân của Thẩm Thiều Quang – Tần ngũ nương. Mặc dù Tần ngũ nương đính hôn trước, nhưng vì cháu của Tín Dương công phải để tang ông ngoại, cho nên nàng ta lại thành hôn muộn hơn Lâm Yến và Thẩm Thiều Quang. Nhớ lại dáng vẻ chau mày của tiểu hài nhi vừa rồi, đúng là rất giống… Nhớ lại chuyện trước kia, Tần ngũ nương mỉm cười, lúc đó đúng là ngốc nghếch thật.

Sau tiệc bách thối, đám tỳ nữ vú già chỉnh lý lại số lễ vật nhận được, Thẩm Thiều Quang nhìn món đồ trang trí hình con khỉ từ ngọc trông rất giống thật do Thiệu Kiệt đưa tới, không khỏi bật cười, thế này là chúc nhi tử của ta cũng lì lợm bướng bỉnh như con khỉ sao?

Trong số lễ vật nhận được cũng có của Lý Tự – con trai thứ tư của Ngô Vương lúc trước, nay phong làm Hoài Nam quận vương.

Vụ án Ngô Vương được tra xét lại, triều đình phái người tới miền nam đón mấy người con trai của Ngô Vương – người còn sống chỉ còn tứ lang và ngũ lang. Tiếc rằng chỉ tìm được ngũ lang, Lý Tự thì mùa xuân năm nay mới tự mình tới Trường An.

Thẩm Thiều Quang từng gặp hắn một lần, ngoài vì quan hệ giữa Ngô Vương với Thẩm gia thì còn bởi vì Vu Tam.

Thẩm Thiều Quang đã trả lại khế ước bán thân cho Vu Tam từ lâu, nhưng Vu Tam vẫn ở lại Thẩm trạch, giúp nàng lo liệu chuyện trong quán.

Lý Tự kế thừa tướng mạo đẹp mắt của gia tộc Lý thị, nhưng không hề có vẻ phóng đãng quần là áo lượt như trong tưởng tượng của Thẩm Thiều Quang – nàng vẫn luôn nhớ mãi chuyện “đổi tiệc cá” mà công chúa Vu Tam từng nói.

Thấy Lý Tự, mắt Vu Tam lập tức sáng chói lên, sau đó lại là cái bản mặt “Ngươi là ai? Ta là ai? Thích ra sao thì ra.”

Thẩm Thiều Quang lui đi, để bọn họ ở lại ôn chuyện với nhau. Đi tới cửa thì nghe được tiếng nói chuyện loáng thoáng trong phòng.

“Tổ tông, cuối cùng cũng tìm được ngươi. Ta còn tưởng là ngươi bị đưa tới thành Thụ Hàng rồi.” Giọng của Lý Tự.

“Người của triều đình không tìm được ngươi, ngươi tới thành Thụ Hàng sao? Không phải ngươi sắp cưới nương tử rồi sao? Lưu công kia nói…”

“Nói vậy mà ngươi cũng tin? Trong đầu chứa óc chim sao? Không phải, ta nói là trong đầu ta chứa óc chim…”

Thẩm Thiều Quang cười, mà thôi, đều là số kiếp cả.

Một thời gian sau đó nữa, Lâm gia nhận được một phần lễ bách thối tới muộn.

Đó là của lang quân nhà Thôi thượng thư Thôi Tĩnh tặng. Lâm Yến không hề giấu giếm Thẩm Thiều Quang, đưa thư cho nàng xem.

“… Khách từ trong kinh tới, nhận được thư đệ, biết tin lân nhi*, huynh rất vui mừng… Huynh có một nghiên mực, là do Túc Nguyên tiên sinh tặng nhiều năm trước, mặc dù không phải là nghiên mực nổi tiếng nhưng cũng là ơn huệ của đại nho, nay tặng cho tiểu lang quân…” Lối văn bia thời Ngụy, mộc mạc chân thành, rất hay. Thư dày mấy trang, kể chút tình hình của bản thân, cũng hỏi thăm tình hình của Lâm Yến, đều là những chuyện rất bình thường, có thể thấy đúng là bằng hữu rất thân thiết của Lâm Yến.

* “Lân nhi” vốn dùng để chỉ những đứa bé thông minh hơn người, sau dùng để chỉ trẻ sơ sinh, mang ý chúc mừng người khác có con, thường là con trai.

Thấy trong thơ Thôi Tĩnh nói mình “thân thể tàn phế”, Thẩm Thiều Quang nhớ trước kia có nghe Sở a thúc kể chuyện Lâm Yến cứu giúp nhà Thôi thượng thư.

Lúc đó bởi vì làm thơ “chỉ trích thặng dư”*, Thôi thượng thư bị phán tù hai năm, con trai tù một năm, đày tới Lĩnh Nam rừng sâu núi độc, nữ nhân trong nhà thì cho vào Dịch Đình. Nhờ Lâm Yến và mấy người bằng hữu thân thiết với Thôi thị ra sức chạy vạy, Trần tướng vẫn luôn bo bo giữ mình mới động lòng trắc ẩn, nói giúp cho trước mặt hoàng đế, Thôi thượng thư và con trai mới được đổi thành đày tới Bình Châu gần hơn một chút. Lại nghe nói lúc đó Thôi Tĩnh đang phát bệnh sốt rét, nhờ đó mới có thể dời ngày, nếu không e là còn chưa tới nơi thì đã bỏ mạng. Chẳng bao lâu sau đó, tiên đế băng hà, đương kim thánh thượng kế vị, Thôi Tĩnh được trở về nguyên quán, nhưng lúc đó Thôi thượng thư đã qua đời vì bệnh, Thôi cô nương thì đã hương tiêu ngọc vẫn từ lâu.

* Phỉ báng hoàng đế. [tác giả]

Đây là những gì Sở Lệ nói cho Thẩm Thiều Quang nghe khi phát hiện ra quan hệ giữa hai người Lâm, Thẩm, ý muốn nói cho nàng biết về nhân phẩm của Lâm Yến và quan hệ giữa hắn với Thôi gia. Thẩm Thiều Quang nhớ rõ lời đánh giá của Sở a thúc về Lâm Yến: “Nhìn có vẻ lạnh lùng nhưng cũng là người có tình có nghĩa.”

Thẩm Thiều Quang trả lại thư cho Lâm Yến, cười nói: “Sau phải dặn tên tiểu tử thối kia dùng cho cẩn thận, chớ có làm hỏng thứ đồ tốt.”

Lâm Yến mỉm cười: “Làm hỏng thì đánh mông hắn.”

3 – A gia đi công tác về

Lúc Lâm tiểu đại lang được ba tuổi thì cuối cùng cũng đã có đại danh, gọi là Trường Linh. Cái tên này khiến Thẩm Thiều Quang hơi ngạc nhiên, nàng cho rằng Lâm Yến chắc hẳn sẽ có chút mong đợi và yêu cầu đối với hài tử về cả đức cả tài, nào ngờ lại mộc mạc đơn giản như vậy, chỉ mong hắn bình an trường thọ.

Tiếc là Lâm Trường Linh có tên chưa được bao lâu thì phụ thân chuyển làm thượng thư bộ Hình, đồng thời được bổ nhiệm tới Giang Nam, chuyến này đi hẳn hơn một năm.

Lâm Trường Linh là một tiểu nam hài có tướng mạo đẹp mắt, bình thường không nói nhiều nhưng đôi lúc cũng sẽ thao thao bất tuyệt.

Thẩm Thiều Quang phát hiện hắn có sức tưởng tượng vô cùng phong phú, thấy một đám kiến khiêng một con côn trùng béo mập thì đoán rằng trong này có binh có tướng, có địch có ta. Điều này khiến Thẩm Thiều Quang khá vui mừng, cảm thấy là di truyền được cái gen tốt của mình, dù về sau hài tử không làm được gì khác thì ít nhất cũng có thể viết truyền kỳ kiếm cơm ăn.

Đồng sự của Lâm Yến rất chu đáo, cứ cách một thời gian đều sẽ tới hỏi xem có thư từ gì muốn đưa tới Giang Nam không, trong số thư nhà được mang đi có đại tác phẩm của tiểu bằng hữu Lâm Trường Linh – “Bức tranh kiến săn thú”.

Tranh được vẽ bằng than đốt từ gỗ cây liễu, “mực đen màu đậm”, miễn cưỡng có thể nhìn ra hình dáng, bên cạnh còn có đủ loại chú thích của Thẩm Thiều Quang, nào vẽ nào thêm chữ, tốt xấu cũng coi như là kể được hết câu chuyện của tiểu bằng hữu.

Sau lại nhận được hồi âm, là lời phê chữa “bài tập” của phụ thân, có thêm một số tình tiết, câu chuyện đơn giản ban đầu trở thành đủ khởi, thừa, chuyển, hợp. Lâm tiểu bằng hữu rất là thích điều này, bập bập bẹ bẹ, nửa biết nửa đoán mà đọc chữ trên tranh, lại đòi Thẩm Thiều Quang đối chiếu tranh với thư, kể lại câu chuyện kiến đi săn này hết lần này tới lần khác.

Thẩm Thiều Quang lại tùy ý phát huy, câu chuyện này thêm chút tình tiết nhỏ, có xu thế từ tranh thiếu nhi biến thành truyện tranh rồi lại thành tiểu thuyết.

Có thể là nhờ trao đổi qua thư từ, cũng có thể là nhờ Thẩm Thiều Quang luôn nói “A gia thương đại lang của chúng ta nhất”, mặc dù ban đầu Lâm Trường Linh hơi xa cách với phụ thân, nhưng đọc sách một hồi, chơi một hồi, chẳng mấy chốc đã thân thiết trở lại.

Lâm Trường Linh chơi đá cầu với Lâm Yến tới nỗi trán ướt đẫm mồ hôi. Thẩm Thiều Quang gọi hắn tới lau mồ hôi và uống nước, Lâm Trường Linh xua tay, còn muốn chơi nữa.

Thẩm Thiều Quang cười mắng: “A gia ngươi vừa về thì ngươi đã không để ý tới a nương nữa.”

Lâm Trường Linh ôm cầu, nói lý với Thẩm Thiều Quang: “Ta chỉ là muốn chơi đá cầu.”

“Bình thường ngươi cũng chơi với A Viên A Thanh nhưng đâu có thế này.”

Cuối cùng Lâm tiểu lang quân cũng nói thật: “Chơi với a gia rất thích.”

“Chơi với mấy người A Viên không thích sao?”

Lâm Trường Linh cũng thích A Viên, nhưng vẫn đáp: “Chơi cũng thích, nhưng chơi đá cầu với a gia thích hơn.”

Tiếc rằng sự thiên vị của hắn dành cho phụ thân của mình chỉ duy trì được tới lúc chuẩn bị đi ngủ.

“Không còn sớm nữa, a gia cũng đi ngủ đi.”

Lâm Yến nhìn nhi tử: “Ta ngủ ở đây.”

“Nhưng đây là giường của ta và a nương.”

Lâm Yến nói rõ lý lẽ với hắn: “Đại lang đã lớn rồi, không nên ngủ cùng với a nương nữa.”

“A gia còn lớn hơn.” Lâm Trường Linh ôm cánh tay của mẫu thân.

Nhìn dáng vẻ đề phòng của hắn, Lâm Yến bật cười, ngồi trên giường, muốn từ từ giảng giải.

Lâm Trường Linh đã giành nói trước: “A nương nói là phải tuân theo thứ tự trước sau.”

Lâm Yến: “…”

Thẩm Thiều Quang cười ha ha.

Lâm Trường Linh cau mày, liếc nhìn a nương với vẻ trách cứ.

Thẩm Thiều Quang vội vàng nói: “Đại lang nói đúng.”

Lâm Trường Linh lộ ra nụ cười đắc ý hệt như phụ thân hắn.

“Giường lớn thế này, đại lang thật sự không muốn chia cho a gia một ít sao?” Lâm Yến đổi kế sách.

Có lẽ Lâm Trường Linh đã nhìn ra ý không chịu buông tha của phụ thân, nghĩ ngợi một lúc, cuối cùng cũng chịu lùi bước hòa giải: “Vậy… a gia cũng ngủ ở đây luôn, được không a nương?”

Thẩm Thiều Quang gật đầu bất đắc dĩ: “Được rồi, để hắn ngủ ở đây đi.”

Lâm Trường Linh nằm giữa phụ mẫu, ban đầu còn hơi kháng cự với phụ thân, nhưng nghe phụ thân kể hai câu chuyện trước lúc ngủ xong thì cuối cùng cũng buông sự kháng cự, một tay nắm góc áo a gia, một tay ôm tay a nương, ngủ thiếp đi.

Lâm Yến nhẹ nhàng ôm hắn sang giường ở phòng bên cạnh, đắp kín chăn, hôn khuôn mặt nhỏ nhắn của nhi tử một cái rồi trở lại phòng ngủ của phu thê mình.

Thẩm Thiều Quang bật cười.

Lâm Yến cũng cười bất đắc dĩ.

Lâm Yến ôm chặt thê tử, một hồi lâu sau mới lên tiếng: “A Tề, ta thật sự rất nhớ nàng.”

Thẩm Thiều Quang vùi trong lòng hắn, nhẹ nhàng nói: “Lâm Yến, ta cũng nhớ chàng.”

– HẾT –

Và như thường lệ, mình lại lảm nhảm vài câu.

Như đã nói ngay từ đầu, mình khá phân vân trước khi quyết định edit truyện này vì từ trước tới giờ mình đều không thích và cũng không đọc truyện xuyên không, nhưng có một vài người nói với mình rằng truyện rất hay và kiến nghị mình nên làm, cho nên mình đã đào hố. Thời gian đầu khá buồn, vì truyện rất ít lượt đọc và bình luận, đặc biệt là trên Wattpad đăng gần ba mươi chương mà chỉ có 9 lượt bình luận, cho nên mình đã quyết định ngừng đăng lên Wattpad, chỉ đăng lên WordPress dù số lượt đọc rất ít, vì đã lỡ đào hố rồi thì phải lấp hố, coi như là tự làm tự đọc. Mãi tới gần một nửa thì số lượt bình luận mới nhiều hơn, đặc biệt là những bình luận cổ vũ, nhờ đó mình mới có động lực làm chăm hơn và ra chương đều đặn. Thật sự cảm ơn các bạn rất nhiều, cảm ơn các bạn đã ủng hộ mình suốt thời gian qua, ủng hộ truyện “Tiệm cơm nhỏ thành Trường An” nói riêng và những truyện mỹ thực khác của mình nói chung.

Thực ra truyện này còn ngoại truyện 3 nữa, với nội dung là thế giới song song, nhưng mình chưa đọc, sẽ không đọc và cũng sẽ không làm, thứ nhất là vì mình không thích thế giới song song, thứ hai là vì không đọc thì cũng không ảnh hưởng gì tới nội dung truyện, thứ nữa (quan trọng nhất) là vì ảnh hưởng từ truyện “Áo blouse và bã đậu ngọt”. Nếu ai đã từng đọc truyện này rồi thì đều biết là truyện này có 4 chương thế giới song song, và mình đã chú thích rất rõ ngay từ đầu 4 chương này rằng đây là một thế giới giả định không khớp với mạch truyện, đã in đậm rõ ràng, thế nhưng vẫn có hàng chục bình luận hỏi sao truyện lại mâu thuẫn vậy, rồi truyện lạ thế, tác giả có bị sao không, vân vân mây mây khiến mình cảm thấy cực kỳ khó chịu. Cho nên để tránh bị ức chế thì mình quyết định không edit thế giới song song cho truyện này. Rất mong các bạn có thể thông cảm cho. Mình nghĩ truyện kết thúc thế này đã đủ để chúng ta vui cho nam nữ chính rồi, dù mình vẫn khá tiếc cho cặp Phúc Tuệ trưởng công chúa và Bùi Phỉ.

Còn một chuyện nữa là hiện mình đã sửa một số lỗi chú thích và cách xưng hô ở tất cả các chương, nhưng vì là người gõ chữ đã nắm bắt nội dung nên dù cẩn thận thì cũng khó tránh khỏi lỗi chính tả, cho nên nếu bạn nào đó có thể giúp mình soát lại lỗi chính tả trong tất cả các chương truyện thì hãy liên hệ mình nhé, mình rất biết ơn ạ. Hoặc nếu đọc thấy lỗi trong chương thì cũng hãy bình luận ngay giúp mình để mình sửa nhé.

Một lần nữa, cảm ơn các bạn rất nhiều vì đã đồng hành cùng mình suốt thời gian qua.

Đăng trong Tiệm cơm nhỏ thành Trường An - Bánh Anh Đào

Tiệm cơm – Chương 108

Ngoại truyện 1: Lên núi Chung Nam ăn đồ nướng

Chín ngày nghỉ thành thân, nào là thăm hỏi đáp lễ, rồi lại đón trung thu, xong rồi thì chỉ còn mấy ngày, Lâm Yến bàn với Thẩm Thiều Quang cùng nhau lên núi Chung Nam chơi thu rồi ở lại vài ngày. Đương nhiên là Thẩm Thiều Quang rất bằng lòng, tháng tám tháng chín là lúc thú hoang mập nhất, thỏ nướng gà nướng hươu nướng dê nướng – quyết định bởi lang quân của chúng ta có thể săn được con gì.

Thẩm Thiều Quang biết kiếm pháp của Lâm Yến rất khá, nhưng bắn tên săn thú không phải mỗi sáng sớm ở trong viện của mình tập luyện là có thể luyện ra được. Hai mươi mấy năm của lang quân nào phải đi học, nào phải thi cử, nào phải du ngoạn, rồi còn làm quan, thời gian và sức lực của con người cũng chỉ có hạn, e là chẳng thừa thãi thời gian để thường xuyên lên núi săn cáo săn thỏ.

Dù cho trong lòng nghĩ vậy nhưng ngoài miệng Thẩm Thiều Quang sẽ không nghi vấn cái gì, cũng hết cách rồi mà, có vết xe đổ rồi. Nhớ lại sự đắc ý của mình lúc trước khi nói mấy thứ “tương nhu dĩ mạt”, “lẩu nam chúc”, “bánh trôi thịt”, lại so sánh với cái cảnh khóc lóc ăn vạ để uy hiếp của mình sau đó… Thật là mất mặt quá mức!

Một người thuộc phái lý luận gặp gỡ một người thuộc phái hành động, gặp gỡ một người thuộc phái hành động lại không có kiến thức cơ bản thì nhất định phải cẩn thận.

Lâm Yến nhìn sắc mặt biến đổi liên tục của nương tử nhà mình, cười hỏi: “Đang nghĩ cái gì thế?”

Thẩm Thiều Quang híp mắt cười, nịnh nọt trả lời: “Ta đang nghĩ nên đưa thêm một ít gia vị như bột hồ tiêu, tương sẻn, an tức hồi hương, để tới lúc lang quân săn được hươu dê hoẵng gì đó thì chúng ta nướng lên ăn cho ngon.”

Mồm mép dẻo quẹo! Lâm Yến xoa tóc nàng, cười hỏi: “A Tề, nàng có biết là những lúc nàng bụng nghĩ một đằng mồm nói một nẻo thì tai sẽ đỏ lên không?”

Thẩm Thiều Quang nhìn Lâm Yến, ngươi lừa ta chứ gì? Một kẻ lão làng như ta đây đâu phải người nói dối sẽ lộ ra mặt chứ.

“Thật đấy.” Ánh mắt Lâm Yến rất thành thật.

Thẩm Thiều Quang nửa tin nửa ngờ sờ sờ lỗ tai, đâu có nóng đâu…

Lâm Yến ôm nàng, cười run cả người.

Thẩm Thiều Quang: “…”

Lâm Yến hôn bên trán nàng, rồi lại hôn tới lỗ tai, dùng răng khẽ day vành tai nàng, thấp giọng cười: “Thế này chẳng phải là đã đỏ rồi sao?”

Thẩm Thiều Quang chỉ cảm thấy cả người tê rần, nhưng vẫn còn mạnh miệng: “Chàng tạo chứng cứ giả, nên bị tội gì?”

Lâm Yến đã bắt đầu công chiếm vành tai của nàng, nói bằng giọng mũi: “Tùy nàng xử trí.”

Thẩm Thiều Quang mềm nhũn trong lòng hắn.

“Những lúc nào đó tai nàng thật sự đỏ lên…” Dáng vẻ vừa ngượng vừa hung dữ thật sự vô cùng đáng yêu.

Giờ thì tai Thẩm Thiều Quang thật sự đỏ hết lên. Trước lúc hoàn toàn mê đắm vẫn còn kịp oán thầm, lang quân thật là xấu xa, thì ra thái độ lạnh nhạt trước kia đều là giả cả.

Tiểu phu thê ồn ào xong rồi thì cùng đi gặp thái phu nhân.

Nào ngờ thái phu nhân nói: “Không đi, không đi, xa thế cơ mà! Vừa khéo các ngươi đi rồi sáng tối không ai tới hỏi thăm, ta cũng nghỉ ngơi vài ngày, ngủ cho thoải mái.” Giọng nói hệt như phụ huynh đưa con tới trường rồi, rốt cuộc cũng có thể nằm nhoài ra giường lướt điện thoại di động.

Thẩm Thiều Quang bật cười, Lâm Yến cũng mỉm cười.

Giang thái phu nhân thật sự là một lão thái thái vừa thú vị lại hiền lành, tiếc là sức khỏe thật sự không tốt. Rời khỏi viện của Giang thái phu nhân, Thẩm Thiều Quang bàn với Lâm Yến chờ tới Tết Trùng Dương thì đưa bà nội đi Du Nguyên chơi một chuyến, Du Nguyên ở ngay trong thành, bà nội sẽ không quá mệt.

Lâm Yến gật đầu, bà nội không muốn cùng đi núi Chung Nam dù có một phần là vì không muốn quấy rầy hắn và A Tề, nhưng cũng vì thật sự không chịu nổi đường dài xóc nảy.

Bởi vì chỉ ở lại vài ngày nên Thẩm Thiều Quang cũng chỉ cùng mấy tỳ nữ sửa soạn chút quần áo và vật dụng hằng ngày, xe cũng chỉ chuẩn bị hai chiếc, đám nô bộc theo hầu thì cưỡi ngựa.

Thấy nàng không gióng trống khua chiêng mang theo đầu bếp, Lâm Yến hơi ngạc nhiên, nhưng cũng lập tức hiểu ra.

“A Tề, mấy thứ gia vị như an tức hồi hương, hồ tiêu, mật ong gì đó đều mang theo đi, tới núi Chung Nam e là không mua được đâu.”

Thẩm Thiều Quang gật đầu: “Mang theo rồi.” Đã cho vào bình nhỏ hộp nhỏ đặt trong rương rồi.

“Còn cả bếp nướng thịt, que nướng, vỉ nướng gì đó của nàng cũng đều mang theo cả đi.”

Thẩm Thiều Quang: “… Được.” Thẩm Thiều Quang lại bảo người đi lấy bộ dụng cụ nướng thịt.

Thẩm Thiều Quang vốn có ý quan tâm, mang đầy đủ như vậy, tới lúc đó bày hết chậu than, giá nướng, que nướng, vỉ sắt ra rồi lang quân lại về tay không thì…

Nói một cách công bằng thì Thẩm Thiều Quang không hề thấy kỹ thuật săn thú không tốt thì có vấn đề gì, cũng đâu có dùng tới nó để kiếm sống. Tưởng tượng ra cảnh Lâm lang quân đuổi theo con thỏ khắp núi suốt một buổi, cuối cùng lại về tay không cũng rất đáng yêu mà. Tới lúc đó có thể xoa đầu hắn, hôn hắn, an ủi hắn, nói với hắn rằng đời người mà không có gì không biết làm thì là không trọn vẹn.

Thẩm Thiều Quang nhìn Lâm Yến, tưởng tượng ra dáng vẻ đáng thương tội nghiệp của hắn, tưởng tượng ra cảnh mình sẽ biểu hiện thật oai, rồi lại tiện thể như vậy như vậy một phen…

“A Tề…”

Thẩm Thiều Quang mỉm cười: “Thấy chúng ta bày cả bộ đồ nướng hoành tráng thế này chắc là thú hoang trên núi Chung Nam đều phát hoảng cả nhỉ.”

Lâm Yến cười liếc nàng một cái, đưa tay xoa tóc nàng.

Thẩm Thiều Quang nghiêng đầu, cau mày nói: “Thoa cài sắp rớt luôn rồi đấy!”

Ngôi nhà mà Lâm Yến mua nằm ở chân núi, không lớn lắm nhưng khá tinh xảo. Tiền đình, chính viện, hai khóa viện nhỏ, còn cả một vườn hoa phía sau. Vườn dựa theo thế núi, ở giữa xây một hòn núi giả, còn trồng mấy loại hoa và cây cảnh, trong đó có một cây quế rất to, bây giờ đã bắt đầu nở hoa, gió thổi qua cả khu vườn thơm nồng hương hoa.

Thẩm Thiều Quang đi vòng quanh gốc cây một vòng, ha ha, bây giờ thì không cần Phúc Tuệ trưởng công chúa phải tài trợ hoa quế nữa, riêng cái cây này đã đủ cho nàng phá hoại rồi. Ngày mai có thể ninh chút cháo gạo nếp hoa quế trước, tiện thể làm chút bánh hoa quế, lúc đó thì bỏ ít đường thôi, kẻo lại làm hỏng mùi quế tự nhiên này.

Đi dạo một lát quanh mấy chỗ khác, thả lỏng xương cốt đã mệt nhoài vì ngồi xe cả buổi, ăn một bữa trưa đơn giản, Thẩm Thiều Quang đi ngủ trưa, Lâm Yến thì dẫn mấy người theo hầu vào núi.

Thẩm Thiều Quang ngủ hơn nửa canh giờ rồi dậy, uống chút trà xanh cho tỉnh ngủ, sau đó cùng A Viên đi bộ một vòng quanh viện của mình rồi ra ngoài, Chu Khuê và một người nô bộc khác đi theo.

Ở cách đó không xa có một thôn trang nhỏ, mười mấy hộ gia đình, rào tre quanh vườn trồng rau nuôi gà, Thẩm Thiều Quang đập cánh cửa đơn sơ từ củi, mua rau ria thịt gà từ một bà lão, để cho mấy người Chu Khuê xách.

Ra khỏi thôn làng, theo đường mòn lên núi, đi chưa đầy hai dặm thì nhìn thấy một dòng suối nhỏ trong vắt, có thể thấy cả cát đá dưới đáy, nơi có vật chắn thì bọt trắng văng lên.

Thẩm Thiều Quang ngồi xổm xuống, vẩy lên một vốc nước, lành lạnh, ngẩng đầu nhìn rặng núi dài tít tắp trước mặt, ở phía xa xa lá cây đã bắt đầu chuyển sang màu đỏ, cảnh vật thật sự rất đẹp – Thẩm Thiều Quang lại nghĩ tới mấy chữ tú sắc khả xan.

Nơi này đúng là tú sắc khả xan – ở cách đó không xa có mấy bệ đá tự nhiên, để đặt lò nướng là vừa khéo.

Thẩm Thiều Quang bảo mấy người Chu Khuê về lấy dụng cụ: “Cầm cả mấy cái bánh nướng nữa, nồi đun nước cũng phải lấy.”

Thẩm Thiều Quang nghĩ bụng, lỡ như không săn được cái gì thì nấu canh trứng với rau xanh, ăn bánh nướng xốp giòn cũng rất ngon.

Chu Khuê cười nói: “Nương tử tính toán chu đáo thật, bánh nướng kẹp thịt quay lại thêm canh rau xanh nữa, thật là tốt.”

Thẩm Thiều Quang cười gật đầu.

Mặt trời ngả về tây, Thẩm Thiều Quang đang khoanh chân ngồi trên bệ đá, vừa uống trà vừa ngắm cảnh thì Lâm Yến và người của hắn trở lại.

Nhìn con vật béo mập không biết là dê hay là hươu trên vai Lưu Thường và cả thỏ, gà rừng trong tay mấy người nô bộc khác, Thẩm Thiều Quang tự nhủ thầm may thật, may mà lần này mình không lỡ miệng.

Tổng cộng cũng chỉ có mấy người, đâu ăn được nhiều như vậy? Chỉ rửa sạch con dê kia, cắt một ít xâu vào que rồi nướng, lại làm thịt một con gà rừng để nấu canh.

Lâm Yến lại nói: “Cắt một đoạn xương sườn của con dê kia đi.”

Lưu Thường mỉm cười, nói với Thẩm Thiều Quang: “A lang thế này là muốn nướng sườn dê cho chúng ta. Trước kia a lang nướng sườn dê từng được tiên sinh và các lang quân trong trường khen ngợi đấy.”

Thẩm Thiều Quang quay đầu nhìn Lâm Yến: “…”

Lâm Yến mỉm cười nhìn nàng một cái, khẽ giơ tay lên.

Thẩm Thiều Quang nhanh chóng đi tới giúp hắn xắn tay áo, lại nịnh nọt: “Lang quân thật là văn thao võ lược, không gì không làm được, lên được phòng khách xuống được phòng bếp, viết được văn thơ cũng bắt được dê nai…”

Lâm Yến lườm con quỷ nịnh bợ bụng nghĩ một đằng mồm nói một nẻo này.

Thẩm Thiều Quang xem Lâm Yến làm thế nào.

Hắn dùng chủy thủ đâm rất nhiều lỗ nhỏ trên sườn dê, sau khi rửa sạch thì xát bột hoa tiêu, muối, tương sẻn lên khắp hai mặt trong ngoài miếng sườn rồi xoa bóp mấy lần.

Nhìn bàn tay thon dài của hắn xoa bóp thịt dê, Thẩm Thiều Quang đột nhiên cảm thấy mặt hơi nóng lên.

Lâm Yến không phát hiện ra vẻ khác lạ của thê tử, chỉ đặt miếng sườn đã xoa bóp xong lên vỉ sắt.

Bên kia, Chu Khuê học được mấy chiêu của Vu Tam đã nướng xong mấy xâu thịt đầu tiên, đưa tới cho Thẩm Thiều Quang trước.

Thẩm Thiều Quang lắc đầu cười nói: “Ta muốn chờ sườn dê nướng của a lang các ngươi.”

Tất cả mọi người đều cười.

Đều là nô bộc thân thiết, chẳng quá để ý lễ tiết, mấy người A Viên, A Thanh và cả Lưu Thường, Chu Khuê đều ăn trước.

Thẩm Thiều Quang và Lâm Yến ngồi nói chuyện, canh lửa chiếc lò chuyên dùng để nướng bằng vỉ.

“Lang quân học được cái này từ ai thế? Còn biết xoa bóp trước cho ngấm vị?”

“Đọc được trong du ký, nghe nói là ở Ba Tư người ta nướng thế này.”

Thẩm Thiều Quang cười đùa: “Trong sách tự có ngàn bồ thóc, trong sách tự có nhà lầu vàng, trong sách tự có thịt thơm lừng…” Nói đến phần sau thì tự mình bật cười trước.

Lâm Yến cũng cười: “Ừ, còn có cái gì nữa?”

Thẩm Thiều Quang chứng nào tật nấy, kéo tay Lâm Yến sang, viết lên bàn tay hắn mấy chữ – “nhan” “như” “ngọc”.

* Trích “Lệ học thiên” của vua Tống Chân Tông nói về tầm quan trọng của việc đọc sách. Nguyên văn đoạn trích: “Phú gia bất dụng mãi lương điền, thư trung tự hữu thiên chung túc; an cư bất dụng giá cao lâu, thư trung tự hữu hoàng kim ốc; thú thê mạc hận vô lương môi, thư trung tự hữu nhan như ngọc”. Nghĩa là: Nhà giàu chẳng phải mua ruộng tốt, trong sách tự có ngàn bồ thóc; an cư chẳng phải xây nhà cao, trong sách tự có nhà lầu vàng; lấy vợ chẳng hận không người mối, trong sách tự có người như ngọc.

Lâm Yến cầm ngược lại tay nàng, nghiêng đầu nhìn nàng một lúc, ánh mắt dịu dàng: “Ừ, nàng nói phải.”

Thẩm Thiều Quang híp mắt cười.

“Có phải nên rắc thêm chút an tức hồi hương rồi không?” Thẩm Thiều Quang hỏi.

Thịt dê đã bắt đầu tí tách nhỏ dầu, mùi thơm càng lúc càng nồng, Lâm Yến rắc bột thì là lên rồi trở mặt.

Thẩm Thiều Quang không uổng công để bụng đói, sườn dê do Lâm lang quân của chúng ta nướng thật sự rất ngon. Bên ngoài có mùi cháy sém thơm thơm, bên trong thì non mềm, khẽ cắn một miếng thì có dầu mỡ chảy ra, lại có mùi thơm đặc thù của thông – trong lúc Thẩm Thiều Quang ngồi chờ ở đây thì đã dẫn người đi nhặt một ít quả thông khô, cho vào trong than đúng là có mùi rất thơm, đúng y như Lương lão tiên sinh đã nói*.

* Lương Thực Thu nói thịt nướng bằng củi thông hoặc quả thông sẽ có mùi thơm của thông. Xem thêm chương 58.

Đám người A Viên vốn đã ăn no vẫn “ăn gắng”, mỗi người tranh một miếng xương sườn rồi gặm.

Lấy bánh nướng kẹp thịt dê nướng, uống canh rau nấu với gà rừng, lại xem Lưu Thường múa kiếm, đám nô bộc chơi một vòng, cũng tới lúc nên trở về.

Đám nô bộc tỳ nữ đi đằng trước, Lâm Yến nắm tay Thẩm Thiều Quang chậm rãi đi bộ ở phía sau.

Thẩm Thiều Quang thẳng thắn với Lâm Yến: “Không ngờ rằng tài săn thú của lang quân cũng cừ như vậy.”

Lâm Yến gật đầu: “Ừ.”

“Ban ngày ta còn sợ các ngươi sẽ không săn được gì cơ.”

“Ừ.”

“Quan trọng hơn là lang quân lại còn biết nướng thịt, mà còn nướng ngon như vậy… Lang quân, sao chàng lại giỏi thế chứ?” Thẩm Thiều Quang lại nịnh bợ thêm một tràng.

Lâm Yến nhịn không được phải bật cười.

Thẩm Thiều Quang yên lòng.

Nhưng mà nàng đã yên lòng quá sớm, buổi đêm vẫn không thoát được “hình phạt nghiêm khắc”.

“Lang quân, thật sự không chịu nổi nữa…”

Lâm Yến ngậm vành tai nàng: “Không tin, nàng lúc nào cũng bụng nghĩ một đằng mồm nói một nẻo.”

“Lần này là thật đấy, lang quân à…”

Lâm Yến cười.

“Món thịt dê này có phải hơi lạ không? Cũng đâu phải là thịt hươu.”

“Lâm Yến! Ta giận rồi đấy!”

“Lang quân, ta thật sự ngoan rồi mà…”

 

Đăng trong Tiệm cơm nhỏ thành Trường An - Bánh Anh Đào

Tiệm cơm – Chương 107

Chương 107: Cuối cùng cũng thành thân

Chiến sự ở phương bắc kết thúc nhanh hơn nhiều so với dự đoán của mọi người, nhưng việc tra xét lại vụ án Ngô Vương lại hơi chậm, hôn kỳ của Lâm Yến và Thẩm Thiều Quang thì lại càng chậm hơn, vốn định đầu hạ lại kéo dài tới tận trung thu.

Triệu Vương biết tin con trai thứ tư Lý Vực đã bị bắt thì tái phát bệnh hen, con trai thứ hai Lý Tê đang bị giam giữ được sự giúp đỡ của các bằng hữu cũ đã cướp đoạt binh quyền, mà tam lang vốn vẫn luôn mềm yếu thì được sự ủng hộ của một số binh tướng khác, phân thành phe phái đối chọi nhau. Tam lang không địch nổi nhị lang, dứt khoát dẫn người “bỏ tà theo chính” quay đầu sang đứng về phía triều đình.

Quân chinh phạt phương bắc cùng quân trong ngoài Nhạn Môn quan vây kín ba mặt, con thứ Lý Tê của Triệu Vương bại trận, trốn tới Hằng Châu nằm dưới sự kiểm soát của quân Thành Đức thuộc ba trấn Hà Sóc. Qua quá trình điều giải, quân Thành Đức dâng nộp Lý Tê và một đám phụ tá, tướng lĩnh nòng cốt.

Tháng năm, tin thắng trận từ tiền phương được tức tốc đưa về Trường An. Chư thần lộ ra nụ cười thoải mái, hoàng đế cũng thở phào nhẹ nhõm. Bách tính Trường An thì lại chẳng thấy có gì cả, đã biết trước là đám nghịch tặc kia sẽ không làm nên chuyện rồi, âm thầm mưu sát thế thì có cái bản lĩnh gì chứ?

Nghe nói lúc đại quân tiến vào Bắc Đô thì thi thể của Triệu Vương đã hôi thối bốc mùi rồi mà vẫn còn chưa được khâm liệm, bên cạnh cũng không có ai trông chừng. Vị đại vương này chiếm giữ Bắc Đô đã hơn mười năm nay, trong tay nắm giữ binh quyền của ba quận, thời tiên đế đã từng mượn tay của đạo sĩ để làm mưa làm gió trên triều, ai ngờ được rằng cả đời oai hùng lại rơi vào kết cục thê lương như vậy.

Chiến sự kết thúc nhanh chóng gọn gàng như vậy khiến Thẩm Thiều Quang khá là ngạc nhiên, nhưng ngẫm lại thì thấy trong sử sách ghi lại rất nhiều cuộc chiến bắt đầu thì khí thế nhưng lại kết thúc rất nhanh chóng như thế. Nhanh thì tốt, quân đội bớt người chết, đám quan viên như Lý tướng bớt đi vài sợi tóc bạc, những người như nàng thì có thể sớm ngày bày điếu cúng tổ tiên.

Thẩm Thiều Quang dâng hương cho phụ mẫu huynh trưởng của nàng kiếp này, cuối cùng thiện ác đều có báo, các ngươi ở trên trời có thiêng thì đều có thể yên nghỉ.

Vụ án Ngô Vương lại được tra xét hơi chậm. Thực ra hoàng đế vốn muốn ba ty tiến hành nhanh hơn, tiên đế dù tàn bạo cỡ nào thì cũng là phụ thân của mình, tốt nhất là có thể giải quyết xong chuyện tra xét trước khi chiến sự ở phương bắc kết thúc, cần khôi phục danh tiết cho ai thì khôi phục danh tiết, cần an ủi động viên ai thì động viên an ủi, nên trả lại ruộng vườn cho ai thì trả, chờ tới khi tin thắng trận báo về, đại quân hồi triều, chuyện này cũng chìm xuống.

Nhưng vụ án Ngô Vương là một vụ án lớn trong những năm cuối đời của tiên đế, liên lụy quá rộng, biết bao nhiêu người vì chuyện này mà bị bãi miễn chức quan, bao nhiêu người bị lưu đày, bao nhiêu người cửa nát nhà tan, há có thể kết án chỉ trong một sớm một chiều?

Vì chuyện tra lại vụ án Thẩm Khiêm, cũng bởi vì nghe nói về chuyện của Thẩm Thiều Quang, viên ngoại lang phân ty Đông Đô là Thẩm Phác xin chỉ vào kinh cùng xử lý việc này.

* Thời Đường Cao Tông và Võ Tắc Thiên thì phần lớn thời gian ở đông đô Lạc Dương, các vị vua sau đó thì chủ yếu lại ở kinh đô Trường An, nhưng cơ cấu quan chức ở Lạc Dương thì vẫn giữ nguyên giống như ở Trường An, quan viên nhậm chức ở đây đều gọi là phân ty Đông Đô. Tuy nhiên vì các quan thự ở đây thường chỉ là trên danh nghĩa nên triều đình thường phái những vị quan bị cách chức hoặc nhàn rỗi tới đây nhậm chức, vì vậy quan viên ở đây thường chỉ để bày trí, lĩnh bổng lộc mà không cần quản việc như ở kinh đô, cho nên người ta mới nói phân ty Đông Đô là những chức quan dưỡng lão.

Nghe Lâm Yến nói vị đường thúc này tới kinh, Thẩm Thiều Quang ra dịch quán bái kiến.

Thẩm Phác chừng hơn ba mươi tuổi, mặt mày tuấn tú, nghe nói từ lúc còn trẻ đã đậu tiến sĩ, bây giờ lại nhậm chức viên ngoại lang lục phẩm phân ty Đông Đô thuộc thượng thư tỉnh – một chức quan dưỡng lão chân chính. Nhìn dáng vẻ hào hiệp phóng khoáng của hắn trong chiếc áo mỏng tay rộng và đôi guốc gỗ, Thẩm Thiều Quang cảm thấy đường thúc làm cái chức quan này thật là vừa hay vừa khéo.

Một người hào hiệp như vậy mà vừa rồi lại vội vội vàng vàng bước ra đón nàng, Thẩm Thiều Quang cảm thấy có lẽ trước đây lúc xuất cung nàng đã nghĩ quá bi quan.

Ngồi ở phòng khách trong gian trọ của dịch quán, Thẩm Phác quan sát nàng một lúc, ánh mắt cảm khái: “Lần trước ta gặp ngươi, ngươi mới chỉ cao chừng này…” Thẩm Phác đưa tay ước lượng tới mép sạp.

Thẩm Thiều Quang cười nói: “Nhi thực sự không nhớ rõ chuyện lúc trở về Lạc Hạ.”

Thẩm Phác chậm rãi nói: “Cũng không phải là ngươi trở về Lạc Hạ, là lúc ta vào kinh dự thi, tới ở nhà a huynh.”

Hai người đều lặng im. Một lúc lâu sau, Thẩm Phác lấy lại tinh thần trước, cười nói: “Lúc đó vẫn chỉ là một đứa bé ôm áo khóc nhè, bây giờ đã là một nữ lang xinh đẹp thế này rồi. Lâm thiếu doãn kia cả nhân phẩm lẫn tướng mạo đều rất được, nhưng nghe nói là tính tình hơi lạnh nhạt.”

Vừa đúng lúc thẩm nương dẫn tỳ nữ bưng trà bánh vào.

Thẩm Thiều Quang đứng lên, thẩm nương nắm tay nàng ngồi xuống, quở trách Thẩm Phác: “Lang quân thật là…”

Thẩm Phác cười nói: “Thế này thì gì chứ? Hôn nhân đại sự, dù sao cũng phải để nữ lang nhà mình bằng lòng mới được. Bây giờ A Tề thế này, sau này A Tinh cũng vậy.”

Nhìn vị đường muội chẳng cao hơn mép sạp bao nhiêu đang híp mắt cười với mình, Thẩm Thiều Quang cảm thấy đường thúc thật là có tầm nhìn xa.

Đường bá Thẩm Trực làm thứ sử Dĩnh Châu tới sau đó thì dáng vẻ lại khác hoàn toàn, khoảng chừng trên dưới năm mươi, mặt trắng, có râu, đôi mắt vô cùng uy nghiêm. Thẩm Thiều Quang không dám lỗ mãng trước mặt hắn, bày ra dáng vẻ ngại ngùng của nữ nhi chốn khuê phòng.

Thẩm Trực hỏi thăm nàng về khoảng thời gian ở trong Dịch Đình, lại hỏi chuyện sau khi ra khỏi cung. Hắn hỏi rất kĩ, Thẩm Thiều Quang không tiện giấu giếm, đành phải nói thật chuyện ở nhờ am ni cô, bày sạp bán bánh rồi mở quán rượu.

Thẩm Trực lặng yên một chốc: “Nói cho cùng thì cũng là chỗ thiếu sót của bọn ta, không chăm sóc cho ngươi được tốt.”

Thẩm Thiều Quang cảm thấy bá phụ đã hiểu lầm hơi quá rồi, muốn nói là nàng ngày ngày đều chơi bời rất vui vẻ, nhưng lại thấy có vẻ không được thích hợp lắm, đành phải gượng cười.

Nghĩ tới chuyện mình phải đại diện bàn bạc việc hôn lễ với Lâm gia, Thẩm Trực mở miệng ra rồi lại khép lại, yên lặng một lúc, cuối cùng cũng nói: “Lâm thiếu doãn nhân phẩm không tệ, chỉ là hơi lạnh lùng nghiêm túc, ngươi…” Thẩm Trực lại dừng lời, hắn thật sự không biết phải làm sao để nói những lời này với một nữ lang.

Thẩm Trực cũng có một nữ nhi, gả cho con trai của thứ sử Lư Châu Thôi Ngôn, lúc đó thì không cần hắn phải nói mà đã có phu nhân nói với nữ nhi, hai nhà cũng coi như là thế giao, phu nhân đã từng gặp tiểu lang quân. Lần này thì để phu nhân nói không thích hợp – thân phận của “lang tử” đặc biệt, chẳng bao lâu nữa Lâm thiếu doãn sẽ trở thành Kinh Triệu doãn tam phẩm rồi, là quan lớn áo tím chân chính. Thẩm Trực chỉ đành miễn cưỡng tự làm.

* Lang tử tức con rể. [tác giả]

Nhưng hai vị thúc bá này chẳng mấy chốc đã tự xô đổ lời nói của mình.

Mỗi lần Lâm thiếu doãn tới bái phỏng đều ăn nói vô cùng cung kính, trên miệng luôn mỉm cười; lúc uống rượu dù mặt đã đỏ lựng cũng không chối từ, rất là nề nếp; mấu chốt nhất là thỉnh thoảng nhìn thấy A Tề thì ánh mắt đều dịu dàng như gió xuân tháng ba…

Lúc không có ai, Thẩm Thiều Quang cười chọc ghẹo Lâm Yến: “Bình thường đâu thấy chàng ấm áp ôn hòa như vậy, thật đúng là giỏi giả bộ.”

Lâm Yến cũng cười, thừa nhận: “Muốn làm lang tử Thẩm gia đúng là không hề dễ.”

Đâu chỉ không dễ thôi đâu, quả thật là quá khó khăn, trong kinh còn có một Lý tướng thỉnh thoảng lại tới tìm mình uống rượu, vị Sở tiên sinh có ánh mắt sắc bén kia cũng sắp vào kinh…

Thẩm Trực được điều làm quan trong kinh, thời gian rất dư dả, vì vậy lục lễ tiến hành không vội cũng không chậm, tới tháng bảy khi vụ án Ngô Vương tra xét xong, Thẩm Khiêm đã được rửa sạch tội, lục lễ mới chỉ đến bước nạp chinh.

Thẩm Trực dẫn các vị huynh đệ con cháu, trịnh trọng cử hành lễ bái cúng tổ tiên, Lý Duyệt, Sở Lệ, Lâm Yến và nhiều người khác đều tặng lễ tế. Tế xong, Thẩm Trực, Thẩm Phác và cả Thẩm Thiều Quang đều đỏ ửng khóe mắt.

Bởi vì Thẩm Thiều Quang có công cứu giá và góp công vào quá trình truy lùng Lý Vực, hoàng đế căn cứ vào số lượng điền trạch của Thẩm gia trước kia, thưởng thêm thành gấp đôi – bao gồm cả dinh thự lúc trước của Triệu Vương.

Rốt cuộc Thẩm Thiều Quang cũng biết được cái cảm giác bỗng giàu sụ sau một đêm.

Thẩm Thiều Quang bắt chước dáng vẻ của nữ chính trong mấy bộ phim, trêu ghẹo Lâm Yến: “Lâm lang quân, ta nuôi chàng…”

Bây giờ Lâm Yến đã bắt kịp nhịp của Thẩm Thiều Quang, mỉm cười hành lễ: “Vậy phải đa tạ phu nhân rồi.”

Nhưng thời gian có thể thoải mái nói cười như vậy cũng không nhiều, nếu không phải vì chuyện triều đình thì trước lúc thành thân hai người không thể gặp nhau được mấy lần – bây giờ Thẩm Thiều Quang sống cùng bá phụ bá mẫu.

Mồng mười tháng tám là ngày tốt, cuối cùng cũng đã tới bước cuối cùng của lục lễ – thân nghênh.

Cả hai kiếp cộng lại bây giờ Thẩm Thiều Quang mới xuất giá, trước kia lại ở trong cung, chưa từng chứng kiến hôn lễ ở dân gian, bây giờ thật sự đã được mở rộng tầm mắt – ví dụ như “hạ tế”.

* “Hạ tế” hay còn gọi là “chướng xa” là tập tục gây khó dễ cho chú rể trong hôn lễ, bắt nguồn từ sự du nhập của văn hóa Hồ vào Trung Nguyên. 

Các a tẩu nhà bá phụ và thân bằng cố hữu mỗi người sẽ nắm một cây gậy “ra tay độc ác” với Lâm thiếu doãn, à không, phải nói là Lâm phủ doãn.

Ba a tẩu nhà bá phụ rất sảng khoái: “Thập nhất nương ngươi chớ đau lòng, con rể là chó nhà vợ*, không đánh một trận thì không được.”

* Trích từ cuốn thường thức khoa học “Hướng dẫn xuyên không tới thời Đường” [tác giả]. Ý của câu này là con rể tới nhà cha mẹ vợ thì địa vị giống như chó nuôi trong nhà, có thể đánh giết mà không cần tới công văn của quan phủ.

Thập nhất nương là thứ bậc của Thẩm Thiều Quang ở trong họ.

Thập nhất nương gật đầu: “Các a tẩu cứ đánh thoải mái, không đánh thì không đàng hoàng.”

Các a tẩu đều bật cười.

Các a tẩu hơi kích động, nghe nói em rể mới phong độ ngời ngời, dung mạo rất khá, lại là quan lớn áo tím, chẳng có mấy cơ hội để đánh một vị lang tử thế này đâu…

Lâm Yến giữ vững hình tượng thành thật nề nếp của mình trước mặt “đoàn nhạc phụ”, không giở mưu kế gì, khiến các nữ nhân trong nhà muốn trêu chọc một trận, lúc Thẩm Thiều Quang ở trên lầu lén nhìn xuống thì mũ hắn cũng đã lệch, tóc đã hơi tán loạn, nhưng vẫn giữ nguyên nụ cười tươi rói.

Thẩm Thiều Quang cười ranh mãnh, Lâm Yến như thể cảm giác được, ngẩng đầu lên, ánh mắt hai người giao nhau.

Bên cạnh đã có người tới gọi Thẩm Thiều Quang: “Thập nhất nương, mau đi trang điểm thôi!”

Trang điểm thì không thể nhanh được – tập tục là như vậy, phải đợi tân lang bên ngoài đọc thơ thôi trang*.

* Một tập tục trong hôn lễ cổ đại bắt đầu từ thời Đường, người tới đón dâu đọc thơ thúc giục tân nương trang điểm.

Thẩm Thiều Quang ở trong phòng vui vẻ lắng nghe, mặc dù Lâm Yến thỉnh thoảng cũng nói đôi câu dỗ ngon dỗ ngọt nàng nhưng chưa từng khen nàng một cách trần trụi lộ liễu như vậy, nhất là chưa từng khen nàng xinh đẹp! Thẩm Thiều Quang nổi bệnh nhỏ nhen, bắt hắn làm, tài tử Hà Đông, tiến sĩ thiếu niên, chả lẽ còn sợ cái này?

Các a tẩu khen ngợi: “Thập nhất nương khá lắm.”

Lâm Yến có thể tưởng tượng được dáng vẻ đắc ý của Thẩm Thiều Quang, chỉ mỉm cười làm từng bài từng bài một, từ mặt phù dung tới đôi mắt hạnh, đến môi anh đào, tóc mây, rồi lại đến phong tư yểu điệu… A Tề của ta đúng là một mỹ nhân.

Sau đó lại là một loạt nghi thức rườm rà khác, tới lúc hai người rốt cuộc cũng có thể đơn độc ngồi cạnh nhau ở Thanh Lư thì Thẩm Thiều Quang đã chẳng còn đắc ý nổi nữa – kết hôn thật là mệt chết đi được!

May mà vừa rồi đám tỳ nữ đã giúp nàng cởi bớt áo khoác ngoài, tháo thoa cài tóc và son môi phấn má than mày hoa điền trên mặt, Thẩm Thiều Quang ngã nhào lên giường, cảm thấy còn mệt hơn cả kiếp trước tăng ca trọn một đêm.

“A Tề…” Lâm Yến ngồi xuống cạnh giường gọi nàng.

Thẩm Thiều Quang ngoái đầu lại nhìn hắn, đột nhiên thấy căng thẳng, gì nhỉ, đúng rồi, hôm nay còn có cái đó mà.

Thẩm Thiều Quang ngồi dậy: “Lang quân, chàng có đói bụng không, có muốn ăn thứ gì không?”

“Ta đã cho người nấu bánh trôi cơm rượu rồi, là kiểu bình thường nàng hay nấu, lát nữa sẽ đưa tới.”

Thẩm Thiều Quang bật cười: “Bị đánh một trận rồi mà vẫn lấy ơn báo oán như vậy, thật đúng là quân tử.”

Lâm Yến xoa tóc nàng, chỉ mỉm cười.

Thẩm Thiều Quang nhướng mày: “Cười cái gì?”

Lâm Yến nhìn nàng, mỉm cười đáp: “Sợ lát nữa nàng không còn sức lực.”

Thẩm Thiều Quang: “!!!”

Lâm Yến lại càng cười tươi hơn, ôm nàng, khẽ hôn lên trán nàng, dịu dàng nói: “Ăn một chút đi, lễ nghi rườm rà, chắc chắn cả buổi tối nàng chưa ăn gì cả.”

Tỳ nữ bên ngoài Thanh Lư nói bánh trôi đã nấu xong. Lâm Yến bảo bọn họ đưa vào.

Thẩm Thiều Quang ngồi trước bàn ăn ăn bánh trôi cơm rượu hoa quế, Lâm Yến không ăn mà chỉ nhìn nàng ăn.

Bị hắn nhìn, Thẩm Thiều Quang lại càng căng thẳng hơn.

Thẩm Thiều Quang bắt đầu nói về thường thức ẩm thực: “Món bánh trôi cơm rượu hoa quế này làm rất tốt. Hoa quế được ngâm đường, ăn rất ngon. Cơm rượu cũng rất ngon, có phải là mua ở cửa hàng rượu lâu năm của Vương gia ở Đông Thị không? Rượu nhà họ rất ngon, cơm rượu cũng rất ngon, có vị thanh thuần mà nhà khác không có, ta đoán là nhờ gạo tốt…”

“Nàng chớ sợ.” Lâm Yến thấp giọng an ủi: “Ta sẽ cẩn thận…”

Thẩm Thiều Quang: “…”

Thẩm Thiều Quang buông bát, cầm chén trà lên súc miệng một chút, sau đó trịnh trọng nói với Lâm Yến: “Trưởng công chúa cho ta một món đồ. Chúng ta có cần học trước một ít không?”

Là một người có “tư liệu học tập” bỏ vào ổ đĩa F và cả ổ đĩa G, Thẩm Thiều Quang cảm thấy kiến thức lý luận của mình vẫn đủ dùng, nhưng học thêm một chút cũng không hỏng đi chỗ nào, tập sách trưởng công chúa tặng thật sự là hàng chọn lọc đấy…

Lâm Yến mỉm cười liếc nàng một cái, ôm ngang người nàng lên: “Không cần!”

“Không phải… Thật sự không cần sao? Ta cảm thấy thứ đó…”

Trong rèm, Thẩm Thiều Quang hoàn toàn không phát ra được âm thanh nào nữa.

– Hoàn chính văn –

Đăng trong Tiệm cơm nhỏ thành Trường An - Bánh Anh Đào

Tiệm cơm – Chương 106

Chương 106: Vào cung gặp hoàng đế

Ngày Thẩm Thiều Quang vào cung yết kiến hoàng đế chính là ngày mồng chín tháng ba, sinh nhật của nàng ở kiếp trước.

Lâm Yến chầu triều xong thì trở về đón Thẩm Thiều Quang quay lại cung.

Nghe nói hoàng đế triệu kiến mình, ban đầu Thẩm Thiều Quang khá ngạc nhiên, nhưng ngẫm lại cũng thấy hợp tình hợp lý, nàng là người duy nhất còn sống trong vụ án oan của Thẩm gia, lại còn trùng hợp có công cứu giá, lại có quan hệ với Lâm Yến và Lý tướng, hoàng đế muốn tỏ chút ý động viên xoa dịu cũng là chuyện thường tình.

Theo như Thẩm Thiều Quang thấy thì đương kim thánh thượng cũng không tính là có tài trí mưu lược kiệt xuất hay vô cùng anh minh sáng suốt gì, nhưng vị hoàng đế này lại có da mặt hơi mỏng, hay bị “ngại” – ngại xa xỉ quá mức, trong quốc khố thiếu bạc, sửa một khu vườn hắn nấn ná kéo dài suốt mấy năm; sau khi lên ngôi lại ngại nghiêm khắc chấn chỉnh triều đình, thay máu cho quân đội, chỉ dám làm từng chút từng chút một; lấy được “chỗ tốt” từ mấy người nàng rồi nên ngại tiếp tục đè ép vụ án oan Thẩm gia…

Da mặt không đủ dày, lòng dạ không đủ ác, có lẽ không thể tính là một vị vua tốt nhưng ít nhất cũng có thể tính là một người tốt.

Nghe Thẩm Thiều Quang đánh giá hoàng thượng như vậy, Lâm Yến bật cười, từ lâu hắn đã phát hiện ra là A Tề có phần thiếu tôn trọng hoàng gia, hơi bới móc, có đôi nét của sĩ tộc lục triều.

Là con cháu nho gia, một người từ lúc còn trẻ đã nổi tiếng có tài, Lâm Yến cũng từng có lúc rất ngông cuồng, khi đó cùng Bùi Phỉ đọc sử bình luận nhân vật, đánh giá cổ kim, mặc dù không đến mức hát Phượng cười Khổng Khâu nhưng cũng từng chê bai rất nhiều vị hoàng đế.

Lâm Yến khá đồng ý với lời này của Thẩm Thiều Quang, đương kim thánh thượng “da mặt mỏng” “nhân hậu” đương nhiên có đôi lúc không thể không như vậy, nhưng cũng có liên quan tới tính cách của hắn, trong số các vị hoàng đế thì đương kim thánh thượng thuộc kiểu có “nhân đạo”.

Thẩm Thiều Quang phì cười, thì ra Lâm thiếu doãn của chúng ta cũng có thể mở miệng nói những lời bén nhọn như vậy. “Nhân đạo”… Còn không phải sao, bao nhiêu vị hoàng đế nổi danh trong lịch sử đều chẳng thiếu tài thao lược, chỉ thiếu mất “nhân đạo”.

Lâm Yến chẳng sợ lộ “bộ mặt thật” trước mặt nàng, ngược lại còn có cảm giác vui mừng, trước mặt người mình ái mộ, phô bày cho nàng xem hết tất cả mọi khía cạnh của bản thân một cách chân thật nhất, giống như đêm động phòng… Lâm Yến hắng giọng một cái, mỉm cười nói với Thẩm Thiều Quang: “Chúng ta đi thôi.”

Thẩm Thiều Quang nhìn Lâm Yến vẻ ngờ vực, cứ cảm thấy hắn không được tự nhiên lắm.

Thẩm Thiều Quang và Lâm Yến bàn tán về hoàng đế, hoàng đế cũng đang cùng Tần Tường bàn tán về bọn họ.

Tần Tường hoàn toàn là người của mình, hoàng đế chả giấu giếm gì hắn: “Chờ chiến sự ở phương bắc kết thúc rồi, tới lúc ban thưởng cho đại thần có công thì để Lâm Yến làm phủ doãn Kinh Triệu đi, để Bạch lão tẩu tới Lạc Dương dưỡng lão, đừng có chiếm tổ lại không đẻ trứng.”

Nghe thánh thượng nói ra một câu quê mùa như vậy, Tần Tường bật cười, lại hắng giọng: “Thánh thượng chớ bắt chước đám tiểu hoạn quan nói mấy lời như vậy. Cẩn thận lên triều lỡ miệng lại bị đám ngự sử bàn tán.”

Hoàng đế cười đáp: “Thích bàn thì cứ bàn đi, trẫm bị bọn họ bàn tán còn ít sao? Trẫm sửa vườn bọn họ quản, lên triều muộn bọn họ quản, ngay cả mùa hè mặc y phục đến nửa cánh tay bọn họ cũng muốn quản, thêm một chuyện thế này cũng chả nhiều nhặn gì.”

Tần Tường cười, quay lại nói tiếp về Lâm Yến: “Vị Lâm thiếu doãn này tuy còn trẻ tuổi nhưng lại có trách nhiệm có mưu lược, cái hiếm là lại còn không cổ hủ, Kinh Triệu của chúng ta đúng là cần một người như vậy chèo chống.”

Tần Tường hiếm khi đánh giá quan viên trong triều trước mặt hoàng đế. Thấy hắn nói như vậy, hoàng đế nhìn hắn vẻ rất có hứng thú.

Tần Tường tổng kết: “Thật là một người có năng lực.”

“Ta còn nhìn trúng cái “tinh thần hào hiệp” của hắn nữa.” Hoàng đế nói với Tần Tường chuyện Lâm Yến chạy vạy vì Thôi Bá Uyên lúc trước: “Ngoài mặt thì lạnh nhưng trong lòng lại ấm, có phong thái của các bậc hiền triết ngày trước. Dùng người như vậy rất yên tâm.”

Mà nhắc tới Thẩm Thiều Quang, Tần Tường không khỏi nở nụ cười thoải mái: “Thật đúng là một cô nương có một không hai, tướng mạo đã xinh đẹp lại còn vô cùng thông tuệ…” Tần Tường ngừng lại, tiếc là không ở lại trong cung.

Hai người chủ tớ hai mươi năm, nghe giọng hắn thì hoàng đế biết rõ hắn đang nghĩ cái gì. Hoàng đế lại nhớ tới điệu bộ khoe khoang của Lâm Yến, vị cô nương này đúng là thông tuệ thật, nhưng chọn thê thiếp có ai đặt tài trí lên hàng đầu cơ chứ? Cũng đâu phải là chọn phụ tá.

Nhưng mà nghĩ tới hí lộng, tới tập thơ về cái ăn, tới quyển thực đơn có thể xem như sách ở trong quán rượu, rồi còn cả món lẩu được xưng là ăn một tháng không trùng lặp kia, tính ra thì tính cách của cô nương này cũng khá thú vị…

Chờ đến lúc gặp vị Thẩm cô nương này, mặc dù là thê tử của thần tử trong triều nhưng hoàng đế vẫn ngắm nghía kĩ hơn một chút, không thể không thừa nhận rằng ngay cả tướng mạo cũng rất xuất sắc. Nàng không phải kiểu đẹp ở ngũ quan mặt mũi mà là kiểu đẹp ở khí chất, ánh mắt kia giống như ẩn giấu ánh dương rực rỡ ngày xuân. Thì ra trước kia ở trong cung của mình còn có người thế này…

Hoàng đế không nhận lỗi trước bề tôi thay phụ thân của mình mà chỉ ân cần an ủi: “Mấy năm nay nữ lang đã phải chịu khổ rồi.”

Thẩm Thiều Quang mỉm cười, cúi người: “Dân nữ không dám nói khổ.”

Không dám nói khổ, không phải là không khổ. Câu nói theo phép của bề tôi nhưng lại có cái khí khái của kẻ sĩ. Lại không tự xưng là “thần nữ” mà xưng là “dân nữ”, bởi vì phụ thân còn chưa được minh oan. Vị nữ lang này nói chuyện có nét giống hệt một số thần tử trong triều, vừa uyển chuyển lại vừa trực tiếp, từng chữ từng chữ đều ẩn chứa ý nghĩ sâu xa, từng lời từng lời đều có xương có thịt.

Vừa rồi hoàng đế còn cảm thấy Lâm thiếu doãn tìm được một cô nương vừa có tài vừa có mạo lại thức thời, bây giờ lại cảm thấy như Thục Phi Bàng thị của mình vẫn tốt hơn, trong vắt như dòng suối chảy, nàng nghĩ cái gì chỉ cần liếc mắt là nhìn ra ngay, dù cho có uyển chuyển cỡ nào thì chẳng qua cũng chỉ là vòng vèo một chút mà thôi.

Hoàng đế nhìn Lâm Yến, hơi ngờ vực, hai người các ngươi bình thường cũng nói chuyện kiểu như thế sao? Lâm thiếu doãn ngày ngày ở trên triều ở nha môn đều bàn luận chính sự với người ta như vậy rồi, đi gặp cô nương cũng như thế không thấy mệt sao?

Hoàng đế lại hắng giọng, lấy tinh thần như lúc nói chuyện với các thần tử trên triều: “Vụ án Ngô Vương đã có ty tra xét lại rồi, nữ lang đợi thêm ít ngày nữa.”

Thẩm Thiều Quang trịnh trọng hành lễ: “Vâng.”

“Nữ lang thật là thông minh, hè năm ngoái bắt được kẻ thám thính từ phương bắc tới, năm nay lại nhìn ra được đầu đuôi ngọn ngành bọn Lý Vực, Kiều Hợi.”

Ý này là muốn nghe chi tiết, Thẩm Thiều Quang bèn kể tỉ mỉ những chuyện kia. Những món ăn đặc biệt mà đám cướp Bắc Đô kia muốn gọi, mùi trên người bọn hắn, vẻ mặt bọn hắn khi đó… Còn những điểm đáng nghi trên người Lý Vực thì lại càng nhiều hơn, nói là sĩ tử Tô Châu nhưng lại thích bơ sữa mà người miền bắc thích uống, rõ ràng có rượu nữ nhi nhưng lại chọn rượu Tân Phong, ăn xương dê rất rành, thích chua, thích cay, thích mì, còn cả mùi huân hương giống trên người đám người Hồ kia.

Việc này thì hoàng đế đã từng nghe Lâm Yến bẩm báo. Nhưng Lâm Yến bẩm báo thì chỉ nhắc những cái cốt lõi, tập trung phân tích tổng thể, bây giờ Thẩm cô nương lại là kể chuyện, là kiểu phân tích cặn kẽ, khá giống với hồ sơ các vụ án tử hình mà bộ Hình trình lên.

Nói chuyện với một cô nương thế này thật đúng là một trải nghiệm mới mẻ, hoàng đế hắng giọng: “Nghe nói hôm truy bắt Kiều Hợi, nữ lang còn đích thân tới quán rượu mạo hiểm?”

Con cháu của một tội thần, một cô nương còn trẻ tuổi mà đã có tầm mắt như vậy, can đảm như vậy, lòng trung như vậy… Hoàng đế gật đầu: “Nữ lang thật là hiếm có.”

Thẩm Thiều Quang cười ngại ngùng, thành thật đáp: “Ngày đó cũng không gặp nguy hiểm gì, dân nữ đã rời quán trước.”

Hoàng đế bật cười, thế mà cũng là một người thành thật.

Thẩm Thiều Quang lại nghiêm chỉnh trở lại: “Dù có chút nguy hiểm cũng không sao. Tiên phụ từng dạy dân nữ, “chỉ cần lợi quốc, chớ tiếc thân mình”. Dân nữ chỉ là bước theo dấu chân của tổ tiên mà thôi.”

Nhớ tới sự bất khuất của Thẩm Khiêm trước thềm điện năm đó, hoàng đế trầm ngâm một lúc: “Nữ lang yên tâm, nỗi oan của Thẩm công chắc chắn sẽ được rửa sạch.”

Lần này Thẩm Thiều Quang trịnh trọng vái tạ.

Trên đường về, Lâm Yến không cưỡi ngựa mà ngồi xe cùng Thẩm Thiều Quang.

Nhìn sắc mặt nàng, Lâm Yến ôm nàng, tay còn lại khẽ vỗ lưng nàng: “A Tề ngoan…”

Chốc lát sau, Thẩm Thiều Quang ngồi thẳng dậy, cười nói: “Hôm nay là sinh nhật của ta đấy.”

Lâm Yến cũng không muốn nàng cứ chìm đắm mãi trong bi thương, hùa theo lời nàng: “Không phải mới đón sinh nhật mấy hôm trước sao? Sao hôm nay lại sinh nhật nữa?”

Thẩm Thiều Quang sờ chiếc thoa cài tóc mà Lâm Yến tặng nàng mấy hôm trước, nhướng mày cười: “Mấy hôm trước là sinh nhật của A Tề, hôm nay là sinh nhật của Thiều Quang, thế không được sao?”

Lâm Yến bật cười: “Được, được, chỉ là nàng không nói trước, ta còn chưa chuẩn bị lễ vật.”

Lễ vật… Thẩm Thiều Quang nhìn Lâm Yến, ánh mắt đảo qua cổ hắn, híp mắt cười: “Buổi tối chàng tới ăn cùng ta, ta nói cho chàng biết ta muốn cái gì.”

Lâm Yến gật đầu, xoa tóc nàng.

Buổi tối, dùng cơm ở Thẩm trạch xong, hai người ngồi đối diện nhau trên sạp cùng uống trà, Lâm Yến lại hỏi chuyện này.

Thẩm Thiều Quang ghé sát vào người hắn nói gì đó.

Lâm Yến nhấp môi, nhìn dáng vẻ vừa lưu manh lại vừa yếu ớt của Thẩm Thiều Quang, nở nụ cười bất đắc dĩ, thật sự chỉ hận khi đó mình không mời Thẩm thứ sử tới thay mặt xử lý cho xong lục lễ.

“Không được sao?” Thẩm Thiều Quang lại chọc ghẹo một câu.

“Ngoan, chớ náo loạn, ta sợ ta nhịn không được…”

Thẩm Thiều Quang lại liếc nhìn cổ hắn, chẳng qua ta chỉ muốn sờ một chút, nghịch ngợm nút ruồi đỏ nho nhỏ kia một lát mà thôi, có cần phải thế không chứ?

 

Đăng trong Tiệm cơm nhỏ thành Trường An - Bánh Anh Đào

Tiệm cơm – Chương 105

Chương 105: Dụ bắt Lý tứ lang

Mặc dù đã khai chiến với binh của Triệu Vương nhưng ở thành Trường An thì nên sống thế nào người ta vẫn sống thế đấy.

Liễu đã nhú mầm, cỏ cũng xanh biếc, các loài chim ríu ra ríu rít, một mùa xuân nữa đã lại đến. Các quý nhân tổ chức đủ loại yến tiệc mừng xuân, sênh tiêu đàn sáo, mỹ nhân ca múa; dân chúng bình thường thì hái rau dại trộn nhân bánh gói hoành thánh, ăn đĩa xuân; các tiến sĩ tân khoa cưỡi ngựa ngắm Trường An; các cô nương mặc áo xuân trên đường vừa liếc mắt, lang quân trẻ tuổi đối diện đã không dời nổi mắt…

Thế này là còn chưa tới Tết Thượng Tị đâu, tới Tết Thượng Tị còn náo nhiệt hơn nữa kìa.

Cấm quân cũng không cấm được cái này, cuộc sống như vậy, phong tục như vậy mà. Thực ra thì cấm quân, võ hầu và phường đinh đều đã mệt mỏi cả rồi, lỡ như phạm nhân đã chạy thoát lâu rồi thì sao?

Trong một ngôi nhà ở phường Thăng Bình, mấy người nô bộc cản trước cửa viện, chắp tay cầu khẩn: “Tứ lang, ngươi vẫn nên ít ra ngoài thì hơn. Mặc dù bây giờ bên ngoài kiểm tra không nghiêm, nhưng trên đường vẫn còn dán cáo thị vẽ hình ngươi.”

Lý Vực đưa tay chỉ lên mặt mình: “Ta như thế này rồi mà vẫn còn nhìn ra được sao?”

Đám nô bộc nhìn thư sinh ốm yếu với khuôn mặt vàng vọt, hàng mày chữ bát và chòm râu loàm ngoàm trước mặt mình, đưa mắt nhìn nhau vẻ khó xử, tứ lang luôn rất coi trọng dung mạo của mình, bây giờ đã “tự bôi nhọ” như thế này cũng chả dễ dàng gì, nhưng…

Người cầm đầu trong số đó nói: “Tứ lang, Nhậm giáo úy đi nghe ngóng tin tức đã sắp về rồi, ngươi chờ hắn một lúc rồi lại đi được không?”

Lý Vực lại càng không vui: “Nhậm Phụng hắn mà cũng xứng để ta chờ sao?”

Nhậm Phụng nằm vùng ở thành Trường An đã nhiều năm, miệng lưỡi trơn tru, nhưng Lý Vực cũng không phải kẻ ngu si, có thể nhìn ra được hắn là người của Kiều Hợi. Cái kiểu miệng lưỡi trơn tru lại qua quýt như hắn còn khiến người ta ghét hơn cả kiểu bảo thủ như Kiều Hợi.

Trước lúc mưu sát hoàng đế, Kiều Hợi bày ra bộ dạng trung thần, trịnh trọng dập đầu tạ tội, cầu xin Lý Vực tránh tạm đi, nói gì mà tứ lang thân phận tôn quý, nếu có gì sơ suất thì hắn muôn lần chết cũng không thể chuộc tội, mặc dù Lý Vực cảm thấy Kiều lão tẩu quá mức cẩn thận nhưng cuối cùng vẫn mềm lòng, chịu để cho Nhậm Phụng đưa tới nơi khác ẩn náu một thời gian.

Về sau mưu sát thất bại thật, Lý Vực không phải không ngạc nhiên, cũng thật sự hơi cảm tạ Kiều Hợi, may mà lão giã này khôn khéo cẩn thận…

Nhưng bây giờ bị nhốt trong cái nhà nhỏ này cả ngày không thấy ánh mặt trời, mà quan trọng hơn là chẳng biết cuộc sống như thế này sẽ phải kéo dài tới ngày nào, Lý Vực thực sự thấy sốt ruột. Nhậm Phụng nói hiện giờ đã bắt đầu đánh nhau rồi, nhớ tới áo mũ hoàng đế đã làm xong ở nhà, không biết a gia có thể đăng cơ không? Để ổn định lòng dân, có thể nào hắn sẽ lập tam lang làm thái tử? Hoặc thậm chí là thả nhị lang ra? Trước kia hắn cũng rất thương nhị lang…

Lý Vực kiên quyết muốn ra ngoài, đám nô bộc không ngăn lại được.

Sợ khiến người ta chú ý, hắn chỉ dẫn theo hai hộ vệ bên cạnh, đều là người mang từ phủ Triệu Vương tới, võ công cao cường, ít nói, coi hắn như mạng. Trên đường đi, ban đầu Lý Vực còn hơi run sợ, nhưng lúc ra tới cửa phường, tên phường đinh cũng chỉ liếc nhìn bọn họ qua loa rồi thôi, trên đường còn gặp mấy vị cấm quân cũng không xảy ra việc gì, thế là dũng khí của hắn liền tăng lên.

Lý Vực cũng không phải lần đầu ra ngoài, hắn biết, muốn tìm hiểu tin tức thì có hai nơi để tới, một là quán rượu quán cơm, hai là Tần lâu Sở quán. Rượu vào rồi, có mỹ nhân trong ngực, cái gì cũng nói ra miệng được. Nghĩ tới quán rượu thì nhớ ngay tới Thẩm Ký, Lý Vực nhếch môi, đi thẳng tới phường Bình Khang.

Vào phường Bình Khang, tiếng đàn sáo văng vẳng bên tai, mỹ nhân thướt tha trước mắt, Lý Vực nhẹ nhõm hẳn, đây mới là cuộc sống của con người.

Tìm một viện không mấy nổi bật nhưng khá thoải mái lịch sự, Lý Vực đi vào, ngồi ở trong góc, gọi đồ uống và bánh ngọt, nghe một kỹ nữ gảy tỳ bà hát khúc.

… Một nhánh hồng tươi, móc đọng sương; mây mưa Vu giúp uổng sầu thương…*” Khúc đang hát là Thanh bình điệu của Lý Bạch.

* Bản dịch của Trần Trọng San.

Ngưng giữa đoạn, có người nói: “Có cái gì mới mẻ không hả? Cả ngày nghe mãi cái này phát ngán rồi.”

Kỹ nữ nhẹ nhàng cúi chào: “Các tiến sĩ tân khoa đỗ đạt, khoảng này các năm trước là nhiều từ khúc nhất, nhưng từ khúc năm nay lại… hơi hùng tráng, sợ là không thích hợp cho các lang quân nghe trong lúc uống rượu.”

Bởi vì trận chiến với Triệu Vương, cũng có thể là vì không ít sĩ tử từng gặp sự kiện mưu sát ở quán rượu Thẩm Ký và “tiệc lòng son” sau đó, cho nên thơ từ của các tiến sĩ tân khoa năm nay bớt đi chút hương diễm lại thêm chút hùng hồn bi tráng. Thơ từ như vậy thực sự không thích hợp để hát vào lúc này, hơn nữa người có thể hát cho hay chỉ là số ít.

Kỹ nữ cười nói: “Nhi đây thì cũng có một khúc từ mới, nghe nói là của một danh kỹ nào đó ở phương bắc viết cùng một lang quân thế gia.”

Đám khách nhân cười nói: “Công tử mỹ nhân, cái này hay! Hát cái này đi!”

Kỹ nữ lại khách khí, nói là còn chưa luyện kĩ, mong các lang quân chớ chê cười.

“Không cười, không cười, cứ hát thoải mái! Vân nương dù chỉ hừ hừ thôi thì cũng hay rồi.” Một vị khách trêu đùa.

Kỹ nữ cười, khẽ mắng người kia một tiếng, chỉnh dây đàn, bắt đầu hát.

“Tà dương ngô đồng lá rụng, quân lên đường đi xa…”

Trong lòng Lý Vực chấn động.

“… Tiệc đêm bến Hàm Dương, đêm xuân say giấc muộn. Cánh tay còn vết son hồng, lòng nhớ thương chàng khôn nguôi…”

Đây rõ ràng là cảnh lúc trước khi mình và Phượng nương ly biệt! Phượng nương tên Phượng, cho nên viện của nàng gọi là viện Bích Đồng*, hắn rời khỏi Bắc Đô giữa lúc lá ngô đồng rơi, ý thu nồng đậm. Lúc chia tay với Phượng nương nàng đã dặn chớ trầm mê ở Trường An mà quên mất cố nhân.

* Phượng đồng là tên một loài cây với những bông hoa màu đỏ nhạt, trông giống như con chim phượng hoàng nằm trên cây, được xem như một điềm lành.

Lý Vực căng thẳng trong lòng, có lẽ đây chỉ là do hắn nghĩ nhiều, dù sao ý thu và ngô đồng cũng thường được đưa vào thơ ca, nữ tử thương nhớ cố nhân cũng là chuyện thường tình, nhưng như thế này có phải là quá trùng hợp rồi không? Một danh kỹ ở phương bắc…

Nếu là cố ý hát cho hắn nghe thì người đứng phía sau là ai? Đương nhiên không phải là Phượng nương, có thể nào là người trong nhà tới đón hắn không? Người nhà hiểu rất rõ tính hắn, ở nơi thế này, hát khúc hát ướt át thế này là khó khiến người ta nghi ngờ nhất, lời ca lại đầy lòng mong mỏi chờ người về.

Nhưng có thể đây là cái bẫy do cấm quân bày ra thì sao? Nhưng sao bọn họ biết là hắn sẽ tới nơi này? Lại còn biết Phượng nương và viện Bích Đồng?

Lý Vực suy đi ngẫm lại những khả năng này, trái tim đập thình thịch, muốn đánh cuộc một phen nhưng lại sợ thua.

Mấy người khách khác thì nghe khúc xong rồi lại gọi người đưa rượu và đồ nhắm lên, mỗi người ôm một nương tử chúc rượu, bắt đầu ăn uống.

“Phương bắc đã bắt đầu chiến tranh rồi, không biết sau này có còn được yên ổn vui vẻ ăn uống thế này nữa không.”

“Xì… Lo thừa.”

Người trước lo lắng: “Nghe nói binh mã Bắc Đô mạnh lắm.”

“Mạnh thì thế nào chứ? Ngươi không nghe nói Triệu Vương bị bệnh sao? Bọn họ ám sát muốn giết thánh thượng là vì cái gì chứ, chẳng phải chính là vì cái ghế kia sao? Triệu Vương đã già thế rồi, bây giờ bệnh một cái…”

“Sao ta không nghe ai nói Triệu Vương bị bệnh?”

“Ngươi chỉ mải mê với Như phu nhân* mới nạp của ngươi, sao biết được chứ?”

* Như phu nhân chỉ tiểu thiếp, xem chú thích chương 39.

Xung quanh vang lên tiếng cười ầm vang.

Lý Vực nghĩ ngợi một chút, không yên tâm, dẫn hai tên nô bộc đổi sang một viện khác, quả nhiên lại nghe được khúc hát mới của “danh kỹ phương bắc”, cũng lần nữa xác nhận tin phụ thân bị bệnh.

Lý Vực thật sự không chờ nổi nữa, gọi người hát khúc kia tới gian riêng chậm rãi hát cho hắn nghe.

“Không biết khúc hát này là ai dạy cho cô nương? Rất giống đang hát chuyện về một người bằng hữu của ta.”

“Bài từ này là do hai vị lang quân dạy cho nô, bảo là nữ lang nhà họ rất nhớ nhung vị lang quân này, nên đã cho người tới kinh tìm kiếm.” Kỹ nữ cười đáp.

Kỹ nữ hiểu rõ, cái gọi là “bằng hữu” hơn phân nửa chính là bản thân vị lang quân này. Nhìn con ma bệnh trước mặt, trong lòng kỹ nữ vô cùng thất vọng, còn tưởng là một lang quân tuấn tú khôi ngô cơ chứ. Thật là thơ từ của đám văn nhân hát thì hay thế thôi chứ không thể tin được.

Lý Vực nhíu mày, nhìn nàng ta: “Bọn họ có nói là bọn họ đang ở đâu không?”

“Nói là ở đạo quán Thanh Vân trong phường Trường Hưng.”

Lý Vực gật đầu, cười, bảo nô bộc cho người kỹ nữ này chút bạc rồi chắp tay đi ra.

Kỹ nữ ước chừng số bạc, nhớ lại nụ cười vừa rồi của hắn và cả dáng người lẫn dáng đi, tính ra thì cũng có nét phong lưu. Ở nơi này đã quen thấy nhiều người lạ chuyện lạ, kỹ nữ chỉ bĩu môi, cho tiền vào trong hầu bao rồi lại đi hát khúc tiếp.

Lúc Lý Vực quay trở lại chỗ ở thì Nhậm Phụng đang sốt ruột đến phát cáu. Thấy hắn đã về thì rốt cuộc cũng yên lòng, đang định khuyên thì lại nghe Lý Vực hỏi: “Tại sao ngươi không nói cho ta biết phụ thân ta bị bệnh?”

Nhậm Phụng cười lấy lòng: “Tin tức này còn chưa chứng thực, nói cho tứ lang cũng chỉ có thể lo lắng suông.”

Lý Vực nhìn bản mặt không thành thật kia, đột nhiên suy đoán, có thể nào hắn ta là người của tam lang không? Chỉ cần ta còn ở lại đây… Lại lập tức khuyên mình nên buông nỗi lo ngại này, Kiều lão tẩu là người một lòng vì a gia, tam lang và Kiều Hợi… không thể nào.

Lý Vực dịu lại, nói với Nhậm Phụng về chuyện hôm nay.

Nhậm Phụng nhíu mày, vậy tại sao bọn họ không liên lạc với hắn? Mà nghĩ cũng phải, những nơi thuộc về phủ Triệu Vương trước kia đều đã bị cấm quân lật tung lên cả, chỗ này là nhà riêng của hắn. Cấm quân không tìm được mấy người bọn hắn thì người của phủ Triệu Vương cũng không tìm được.

Nhậm Phụng nghe xong lời Lý Vực nói thì cũng giống hắn, vừa động lòng lại vừa ngờ vực.

Ngẫm nghĩ một lúc, Nhậm Phụng nói với Lý Vực: “Tứ lang chớ vội, để ta tự tới đạo quán này thám thính một chút rồi quyết định sau.”

Lý Vực cười tán thưởng: “Vậy phải làm phiền Nhậm giáo úy rồi.”

Nhậm Phụng cười trừ, được vị lang quân đẹp mặt này khen thật chẳng dễ dàng gì.

Ngày hôm sau, Nhậm Phụng đích thân tới dò thám đạo quán Thanh Vân này.

Nhậm Phụng đi cả buổi mới về.

“Thế nào rồi?” Lý Vực vội vàng hỏi. Thấy rõ sắc mặt Nhậm Phụng, trong lòng Lý Vực nặng trĩu.

“Quả nhiên là cái bẫy, trong đó có cấm quân cải trang canh chừng, may mà ta nhanh nhạy mới thoát được.”

Lý Vực nhíu mày nhìn hắn.

“Lang quân yên tâm, ta lòng vòng khắp nơi, lại tới Đông Thị dạo một vòng nữa mới về đây. Cũng không có người đi theo.”

Lý Vực yên lòng, vừa thất vọng vừa ngờ vực, sao cấm quân lại biết chuyện của mình được?

Đột nhiên bên ngoài vang lên tiếng đao kiếm. Toàn bộ người bên trong hốt hoảng, còn chưa kịp nghĩ cách xử lý thì cửa sổ và cửa ra vào đã cùng lúc bị phá ra, một đám cấm quân xông vào.

Đám người Nhậm Phụng còn muốn che cho Lý Vực tìm đường ra, nhưng Lý Vực đã nhìn thấy cung thủ trên tường bên ngoài qua ô cửa sổ bị phá thủng.

Lý Vực khoát khoát tay, thôi vậy…

Tần Tường đi tới, mỉm cười nói: “Tứ lang, theo nô tiến cung được chứ?”

Giải Lý Vực đi rồi, Tần Tường thở phào, lần này đúng là nhờ kế sách của Lâm thiếu doãn phủ Kinh Triệu rất tốt, nhưng cũng phải nhờ cấm quân không làm lỡ việc vào thời khắc mấu chốt, chuyện như theo dõi một người suốt một buổi, vừa không để mất dấu vừa không để hắn nhìn ra thì ngoài cấm quân ra chẳng còn ai khác có khả năng này.

Lâm Yến cũng cảm thấy như vậy. Lúc hắn nói chuyện với Thẩm Thiều Quang về việc làm sao để lợi dụng tin tức dò xét được ở Bắc Đô trước kia cùng với suy đoán của Thẩm Thiều Quang về “vùng an toàn” để bố trí mồi nhử ở phường Bình Khang, làm sao để “đánh rắn động cỏ” ở đạo quán kia cùng với quá trình đuổi bắt của cấm quân đã khen ngợi: “Tài theo dõi của cấm quân quả thật rất khá, Kinh Triệu không thể nào sánh được.” Trông có vẻ hâm mộ.

Thẩm Thiều Quang múc cho hắn một bát canh trứng nấu rau chân vịt, như cười như không: “Kinh Triệu cũng có cái tốt của mình. Ví dụ như là khúc hát kia, có thể lừa được Lý Vực hẳn là rất cảm động nhỉ?”

Lâm Yến cong môi lên.

Thẩm Thiều Quang tỏ vẻ ngồi chờ hắn giải thích.

Lâm Yến liếm môi dưới, đọc cho nàng nghe.

Sắc mặt Thẩm Thiều Quang càng lúc càng không ổn, có thể viết ra mấy thứ ướt át thế này…

Thấy dáng vẻ mím môi khẽ lườm của nàng, Lâm Yến cảm thấy thật là quá đáng yêu.

“Lâm thiếu doãn…”

Lâm Yến vươn tay lên vuốt tóc nàng, khẽ cười: “Từ trước tới giờ nàng còn chưa từng ghen tuông với ta đâu, cái cảm giác này thật là tốt…”

Thẩm Thiều Quang nghiêng đầu đi tránh tay hắn, lại vẫn chưa thỏa, nhéo tay hắn một cái.

Lâm Yến lại càng cười to hơn: “Đâu phải do ta viết, ta làm gì có thời gian mà viết cái này? Là do Tiền lục sự ở phủ Kinh Triệu viết.” Vị kia thật sự khá là… phong lưu.

Sắc mặt Thẩm Thiều Quang khá hơn một chút, giọng cảnh cáo: “Chàng phải nhớ cho kĩ, thành thân với ta rồi thì tiểu thiếp tỳ nữ, ca cơ vũ nữ gì đó đều không được có cả. Dù cho ra ngoài dự tiệc thì cũng phải đàng hoàng một chút, nếu không…”

Thẩm Thiều Quang còn đang nghĩ xem nên nói lời nào cho tàn nhẫn một chút thì Lâm Yến đã mỉm cười nói: “Trước khi gặp nàng chưa từng có ai lọt vào mắt ta; gặp nàng rồi trong mắt ta không có ai khác nữa.”

Lâm Yến rất trịnh trọng: “A Tề, sẽ không có “nếu không” đâu.”

Thẩm Thiều Quang nhịn không được híp mắt cười, lại múc thêm cho hắn một muôi canh: “Món rau chân vịt này rất ngon, lang quân uống thêm một chút.”

Hàng mày Lâm Yến giật giật.

Thẩm Thiều Quang nhìn hắn vẻ nghi ngờ: “Có phải là chàng kén ăn không? Ta cứ cảm thấy hình như chàng có thành kiến với rau chân vịt.”

Đăng trong Tiệm cơm nhỏ thành Trường An - Bánh Anh Đào

Tiệm cơm – Chương 104

Chương 104: Bản lĩnh của Thiều Quang

Đêm đó Lâm Yến không thể trở về nhà. Các trọng thần đều trái lệnh cấm đi đêm ùa vào cung, hoàng đế cùng chư thần cùng thảo luận vụ án Triệu Vương mưu nghịch, một phần là thông báo tình hình, phần nữa là cùng bàn bạc đối sách.

Bắc Đô là một trung tâm quân sự trọng yếu, phía bắc giáp mấy đô hộ phủ, phía đông là ba trấn Hà Sóc, Triệu Vương ở Bắc Đô đã lâu, nắm giữ binh quyền, bây giờ lại cấu kết với người Hồ, nếu dấy binh thì có lẽ chiến hỏa sẽ lan khắp phân nửa khu vực phía bắc.

* Ba trấn Hà Sóc hay còn gọi là ba trấn Hà Bắc là ba thế lực phiên trấn cát cứ ở địa phận Hà Sóc vào những năm cuối thời Đường, bao gồm Phạm Dương tiết độ sứ (U Châu, thuộc phía bắc tỉnh Hà Bắc ngày nay), Thành Đức tiết độ sứ (tiếp giáp U Châu, trung tâm tỉnh Hà Bắc ngày nay), Ngụy Bác tiết độ sứ (Thiên Hùng, thuộc phía nam tỉnh Hà Bắc, phía bắc tỉnh Sơn Đông ngày nay).

Nhưng sự tình cũng không đến nỗi quá tồi tệ.

Triệu Vương tuổi đã cao, trước lại từng mắc bệnh hen suyễn, có bốn đứa con trai, đích trưởng tử vì ngã ngựa mà mất mạng; con trai thứ hai vì “ngỗ nghịch” mà bị giam; con trai thứ ba hèn nhát vô dụng, không tham gia vào việc quân binh; con trai thứ tư do ái thiếp sinh ra thì rất được cưng chiều – chính là Lý Vực hiện không biết đang ở nơi nào.

Các bộ ở Hà Đông dù sao cũng là quân triều đình, quan hệ với Triệu Vương không quá bền chắc, cạnh Bắc Đô còn có Nhạn Môn của triều đình, có quân đội bên trong Nhạn Môn quan rồi, nếu bắt được Lý Vực, làm rối loạn tinh thần của Triệu Vương, lại ly gián quan hệ với các tiết độ sứ khác, ổn định ba trấn Hà Sóc, đại quân và quân ở ngoài Nhạn Môn, trong Nhạn Môn vây kín ba mặt thì muốn đánh địch cũng không khó.

* Nhạn Môn quan là một cửa ải của Vạn Lý Trường Thành, thuộc tỉnh Sơn Tây hiện nay. (Để hiểu nhiều hơn về Nhạn Môn quan có thể xem Trường Thành phi thường tập 10)

Chư thần cùng thảo luận sách lược chống địch khá là đồng tâm hiệp lực. Nếu là do nguyên nhân khác thì trong triều khó tránh khỏi sẽ có phái chủ hòa, nhưng đây là vụ án mưu nghịch hành thích hoàng đế, dù không ủng hộ dùng binh trong nước thì bây giờ cũng không dám nói ra chữ “hòa”. Mọi người chỉ nghĩ xem làm sao để bóp chết Triệu Vương – về điểm này thì cái nhìn của Lý Vực khá thấu suốt, hằng năm biếu xén cho hoàng thân quốc thích đại thần trong kinh thành đều chẳng có ích lợi gì.

Bàn đi bàn lại bàn tới tận nửa đêm, sách lược đã có, chuyện điều động binh mã và sắp xếp nhân sự thì đã xong phần cơ bản, những cái chi tiết hơn thì phải chờ tới ngày mai – các vị tướng công đều đã không còn trẻ, thật sự không thức xuyên đêm được thế này.

Thảo luận xong chính sự thì đã qua giờ tí, chỉ còn hai canh giờ nữa là lại tới giờ vào triều. Hoàng đế lo nghĩ cho các cựu thần, muốn để mấy vị lão tướng công đã có tuổi tới trắc điện nghỉ ngơi, cuối cùng các vị lão thần lại cùng mấy vị quan viên trẻ tuổi như Lâm Yến cùng nhau tới quan thự trong hoàng thành nghỉ ngơi.

Trên đường tới cung Thành Dũng, Lâm Yến đi cạnh Lý tướng, lúc lên bậc thang thì thỉnh thoảng đỡ một chút, Lý Duyệt giữ chặt mu bàn tay hắn, hai người liếc mắt nhìn nhau, đều không nói gì.

Ngày hôm sau, trên triều lại rúng động một phen.

Nhưng những chuyện này cũng không dính líu gì nhiều với Thẩm Thiều Quang, bà chủ một quán rượu như nàng, bà chủ một quán rượu nơi diễn ra vụ án hình sự như nàng thì ngoài chuyện phối hợp với quan phủ để điều tra ra chỉ phải lo thu dọn tàn cục trong quán mình.

Nhìn bàn ghế và bình phong bị đập hư, đồ sứ vỡ đầy nền nhà và cả tiểu nhị bị thương ở tay, Thẩm Thiều Quang cười khổ, chỉ có thể an ủi bản thân, may mà cả người của mình và các thực khách vô tội đều không có thương vong gì nghiêm trọng, đặc biệt là đám sĩ tử, chỉ còn hai ngày nữa là bọn họ phải dự thi rồi.

Thẩm Thiều Quang lại cảm thấy chuyện này thật là một đòn nặng giáng vào quán rượu của mình, bữa tiệc chúc đỉnh yến được thiết kế với mong muốn kế thừa “nghìn thu trăm đời” khởi đầu bất lợi – cái khác thì chưa nói, nhưng không may mắn mà, trong lòng bị ám ảnh, sang năm còn ai dám tham gia nữa?

Thiệu Kiệt lại không nghĩ như vậy: “Đây là có công cứu giá đấy. Đáng lẽ hôm qua ngươi nên nói cho ta biết, nếu nói cho ta biết thì chắc chắn là ta đã ở lại rồi.” Dáng vẻ rất là nhiệt huyết.

Đã từng xảy ra chuyện bắt cóc lần trước, Lâm Yến vốn không muốn để Thẩm Thiều Quang xuất hiện ở quán rượu tại Đông Thị hôm qua, thế nhưng Thẩm Thiều Quang cảm thấy việc này vốn do nàng quản, bà chủ như nàng mà không xuất hiện thì sợ là sẽ khiến đối phương nghi ngờ, nhưng rồi vẫn canh giờ rời đi trước. Trước lúc đi còn ấp ủ ý nghĩ cứu được người nào hay người đấy, cho nên Thẩm Thiều Quang đã gọi Thiệu Kiệt đi cùng, chỉ nói là có chuyện quan trọng cần bàn bạc.

Sau đó Thiệu Kiệt biết chuyện thì chỉ có thể vặn cổ tay.

Sự thật đã chứng minh, những người như Thiệu Kiệt không phải là số ít.

Thấy Thẩm Ký mở cửa, chủ quán, quản sự, tiểu nhị và đầu bếp cùng một số nô bộc khác đang thu dọn trong ngoài quán, còn có cả nha sai của phủ Kinh Triệu thì lập tức có khách hôm qua tới hỏi thăm. Chuyện Triệu Vương đã truyền khắp toàn thành, những người “vừa khéo tham dự” thì ban đầu hơi ngơ ngác, sau lại hơi sợ, chờ chuyện qua rồi, tới lúc khắp thành bàn tán ồn ào thì không ít sĩ tử vô cùng kích động.

Bọn họ đứng giữa quán rượu bị phá tơi bời, đứng ở nơi bắt đầu sự kiện ngày hôm qua, phân tích lòng dạ độc ác và kế hoạch bước tiếp theo của Triệu Vương, thảo luận tình hình phân bố quân binh ở vùng lân cận Bắc Đô, thảo luận xem nếu như triều đình chinh phạt thì ai có thể làm tướng, thảo luận những sách lược chiến đấu cụ thể hơn. Thật là tràn đầy khí phách đặt thiên hạ lên hàng đầu của bậc thư sinh, vì cuộc sống của bá tánh, phân ưu cho đế vương.

Nói tới chỗ kích động thì có người hô hào, lấy bút mực tới, muốn viết một bài hịch chinh phạt ngay tại chỗ.

Cũng có người gọi mang rượu tới, rất có xu thế sẽ quăng ngã bát rồi “ném rượu tòng quân”.

Cô nương chủ quán Thẩm Ký cũng thật là một người hay ho, muốn bút mực thì cho bút mực, muốn rượu thì cho rượu, quan trọng nhất là ăn nói cũng rất hay: “Chính nhờ những người bận việc nước quên việc nhà, lòng mang thiên hạ như chư vị quân tử đây thì tiểu bách tính bọn ta mới có thể an tâm sinh sống.”

Quốc gia thiên hạ là nỗi niềm chung của sĩ tử con cháu nho gia, lời của Thẩm Thiều Quang thật sự điểm vào đúng huyệt vị của đám sĩ tử, cảnh tượng lại càng thêm sôi sục, lại có thêm mấy sĩ tử làm thơ, mọi người cũng cùng nhau ước hẹn, dù có đỗ đạt hay không thì ngày này năm nay sau cũng đều tụ tập về đây.

“Có thể cả đời chúng ta cũng không thể trở thành đỉnh thần, nhưng là người đọc sách, “mang tấm lòng son, yêu nước như nhà”, không dám dễ dàng quên mất.” Một vị sĩ tử nói.

Vì vậy mọi người bàn bạc đổi chúc đỉnh yến thành tiệc lòng son.

Thẩm Thiều Quang vỗ tay cổ vũ: “Đổi rất hay!”

Thiệu Kiệt từ chỗ thị lệnh trở về, thấy cảnh tượng này thì cũng lớn tiếng hô hào một hồi, tới chỗ không người thì lại cười nhạo Thẩm Thiều Quang: “Ta nói cái gì nhỉ? Các cô nương như ngươi ấy à, không hiểu được nhi lang bọn ta đâu.”

Thẩm Thiều Quang: “…”

Lúc này bọn họ không hề biết rằng trong kỳ thi đình sau kỳ thi của bộ Lễ, hoàng đế đã mượn chuyện thảo phạt phía bắc đang nóng hổi này làm đề thi, có nền tảng từ chuyện hôm nay, không ít người trong số những sĩ tử tụ họp ở đây đã phát huy rất xuất sắc. “Tiệc lòng son” này dù đã đổi tên nhưng lại được thêm điển cố, cho nên đã thật sự được tiếp tục truyền thừa từ năm này qua năm khác đúng như mong đợi của Thẩm Thiều Quang, trở thành bữa tiệc lớn mà đám sĩ tử ắt phải tham gia trước kỳ thi.

Thẩm Thiều Quang gặp Thiệu Kiệt thì bị cười nhạo, nhưng gặp Lâm Yến lại được khen ngút trời.

Cấm quân tra xét kiểm kê phủ Triệu Vương liên tục một đêm lại thêm một buổi, mặc dù đã bắt được vài người khả nghi nhưng thẩm vấn qua một chút thì biết ngay không phải là Lý Vực. Thế nên cũng chỉ có thể dán tranh truy nã.

Truy nã khắp toàn thành thì cần phường đinh các phường phối hợp, đây là chuyện của phủ Kinh Triệu.

Xét thấy tầm quan trọng của Lý Vực, Tần Tường đích thân bàn giao lại việc này cho phủ Kinh Triệu.

Nhìn hình trên cáo thị truy nã Lý Vực, Lâm Yến hơi nhíu mày, trong cáo thị vẽ một nam tử trẻ tuổi mặt mày tuấn tú với đôi mắt đào hoa xinh đẹp, trên đó còn viết mấy chi tiết như hai mươi tư tuổi, cao bảy thước, sau tai có vết bớt đỏ tươi. Hiện giờ phần lớn hình trên cáo thị truy nã đều là kiểu thế này, thậm chí còn có cái không bằng được thế này, tranh vẽ thế này chỉ có thể dùng để đối chiếu điều tra, nếu muốn dùng nó để nhanh chóng tìm người giữa biển người mênh mông thì là chuyện quá khó khăn.

Lâm Yến đột nhiên nhớ ra những tranh vẽ cực kỳ giống thật của Thẩm Thiều Quang: “Thẩm cô nương đã từng gặp Lý Vực, nàng ấy vẫn luôn rất cẩn thận, có thể vẫn còn nhớ thứ gì khác, nàng ấy lại có tài vẽ, đại tướng quân có thể cho người tới hỏi nàng ấy một chút.”

Nghe hắn nói một cách thân mật không hề kiêng kỵ gì như vậy, Tần Tường nhướng mày.

Lâm Yến mỉm cười: “Thẩm cô nương chính là vị hôn thê của mỗ.”

“Nếu đã như vậy thì để mỗ tự đi thì hay hơn.” Tần Tường cười đáp, rất cho Lâm Yến mặt mũi.

“Mỗ đi cùng đại tướng quân.”

Dù rằng trong lòng nôn nóng thì Tần Tường vẫn cười, đám lang quân trẻ tuổi thật là…

Vừa tiễn đám sĩ tử yêu nước thương dân về thì lại nghênh đón thống lĩnh cấm quân và thiếu doãn Kinh Triệu. Thẩm Thiều Quang hành lễ với bọn họ, lại lén nhìn Lâm Yến, mắt hắn hơi trũng xuống, râu cũng nhô ra, đúng là bộ dạng của dân tăng ca, nhưng mà tuổi còn trẻ lại có khuôn mặt đẹp, cho nên thành ra lại có nét đẹp kiểu phóng khoáng tự tại – hoặc nói đúng ra là gợi cảm.

Lâm Yến chỉ dịu dàng nhìn nàng.

“Khụ…” Tần Tường hắng giọng.

Thẩm Thiều Quang mỉm cười nhìn Tần Tường, vị nhân vật đứng đầu cấm quân này thì trước kia nàng làm cung nữ suốt bao nhiêu năm như vậy mới chỉ gặp hai lần, bây giờ xuất cung rồi lại gặp nhiều hơn. Bên ngoài có khá nhiều tin đồn về vị Tần đại tướng quân này, nhưng bây giờ xem ra cũng khá tốt.

Tần Tường nói rõ mục đích tới đây: “Lâm thiếu doãn nói cô nương cẩn thận tỉ mỉ lại giỏi vẽ, không biết có thể nhờ cô nương vẽ giúp một bức hình Lý Vực hay không.”

Chuyện Lý Vực có thể trốn thoát sự truy nã khiến Thẩm Thiều Quang khá bất ngờ, vị kia… nhìn có vẻ không giống người khôn khéo cẩn thận, nhưng mà ngẫm lại cũng phải, thân phận của hắn quan trọng như vậy, vị Kiều công kia ắt phải đảm bảo được sự an toàn của hắn.

“Đại tướng quân có lệnh, nhi không dám thoái thác. Xin đợi một lát.” Thẩm Thiều Quang nghiêm túc đáp.

Thẩm Thiều Quang từng học qua về phác họa người, trình độ không cao lắm, nếu đặt ở thời hiện đại làm người vẽ trên đường, mười đồng một tranh thì cả ngày cũng không được năm mươi đồng, nhưng bây giờ dùng để vẽ tranh truy nã tội phạm thì vẫn đủ – thậm chí còn khiến người ta phải chấn động.

Tần Tường ngạc nhiên: “Sao cô nương có thể vẽ giống như vậy?” Có tranh thế này, lại thêm ánh mắt tinh tường của những người tra xét thì cho dù Lý Vực có cải trang cũng có thể nhận ra được. Tranh vẽ này thật đúng là quá tốt!

Thẩm Thiều Quang không tiện giải thích rằng thứ này học được từ kiếp trước, cười gượng: “Có lẽ là nhờ… cẩn thận?”

Lâm Yến liếc nhìn nàng vẻ trách cứ, lại giở trò tinh quái! Nhưng vẫn nhịn không được nhếch môi.

Tấn Tường vốn cũng không định dò xét gì, chẳng qua chỉ tỏ vẻ ngạc nhiên và khen ngợi. Nghe nàng dùng lại lời hắn kể lại lời của Lâm thiếu doãn, hai người lại mắt qua mày lại với nhau, Tần Tường chậc chậc trong lòng, đám lang quân và cô nương trẻ tuổi bây giờ…

Nói cười xong rồi, Tần Tường lại hỏi Thẩm Thiều Quang còn nhớ được thứ gì khác không.

Thẩm Thiều Quang nói: “Nhi từng nghe nói tới một từ gọi là “vùng an toàn”, con người đều có xu hướng chờ đợi ở nơi mà mình cảm thấy an toàn. Nhi từng nói chuyện với vị Lý tứ lang kia vài lần. Theo nhi thấy thì vị Lý tứ lang kia tỏ rõ vẻ thông minh, hơi kiêu căng, chắc hẳn là được chiều chuộng từ nhỏ. Người như vậy thì những lúc gặp nguy hiểm sẽ rất lưu luyến gia đình, mặc dù hắn có nhiều thân phận giả, có thể ẩn náu trong đám đông nhưng chắc hẳn sẽ chọn trốn ở nơi có liên quan tới phủ Triệu Vương, ví dụ như cửa hàng, sản nghiệp khác, thậm chí là ở nhà nô bộc.”

Nghĩ tới cặp mắt đào hoa quyến rũ của Lý Vực, Thẩm Thiều Quang cảm thấy vị này có thể còn một vùng an toàn tâm lý khác: “Nhìn tứ lang có vẻ… khá là phong lưu.” Xuyên không đã lâu, làm một nữ lang, Thẩm Thiều Quang vẫn hơi ngượng ngùng khi nói về loại chuyện này: “Đại tướng quân và thiếu doãn có thể cho người đi điều tra thử các Tần lâu Sở quán* xem. Có khi ở những nơi thế này hắn lại cảm thấy an toàn.”

* Thời Xuân Thu, con gái Tần Mục công thổi tiêu rất xuất sắc, Tần Mục công xây cho nàng ta một tòa lầu phượng, còn gọi là Tần lâu, để con gái ở đây thổi tiêu mua vui. Sở Linh vương rất háo sắc, xây dựng cung Chương Hoa, chọn những cô gái xinh đẹp nhất cả nước tới đây để hầu hạ hắn, người đời sau gọi cung Chương Hoa là Sở quán. “Tần lâu Sở quán” được dùng để chỉ những nơi ca múa trổ tài nghệ nói chung, cũng có nghĩa chỉ lầu xanh.

Tần Tường lại càng ngạc nhiên hơn, cười khen: “Cô nương rất có nét của người từng trải trong bộ Hình. Nếu cô nương là nhi lang thì mỗ nhất định sẽ tiến cử cô nương vào Đại Lý Tự hoặc bộ Hình. Thực ra trong cấm quân của ta cũng thiếu những nhân tài thế này.” Nói xong thì lắc đầu tiếc nuối.

Thẩm Thiều Quang nói cảm tạ, Lâm Yến cũng mỉm cười, mặc dù chỉ âm thầm nhưng Tần Tường cũng có thể nhìn ra vẻ tự hào lây.

Tần Tường thì lại khá là thông cảm với hắn, bây giờ thì ngươi vui vẻ thế thôi, nếu sau này có tâm tư gì khác, có một vị phu nhân thế này thì e là không dễ gì giấu được… Nhưng mà cũng chưa hẳn, Tần Tường lại nhớ tới trận mai phục hoàn mỹ vừa rồi, hai vị này cũng coi như là kỳ phùng địch thủ. Tần Tường đột nhiên nhớ tới Hàn thị lang mới bị thánh thượng cười nhạo mấy ngày trước, vị này bị phu nhân cầm gậy gỗ đuổi chạy ra ngoài cửa, không biết cảnh Thẩm cô nương cầm gậy gỗ đuổi theo Lâm thiếu doãn sẽ trông như thế nào nhỉ?

Có người tới bẩm báo làm cắt đứt “dòng tưởng tượng” của Tần Tường. Hắn cười nói với Lâm Yến và Thẩm Thiều Quang: “Mỗ còn có việc, không quấy rầy nữa.”

Lâm Yến và Thẩm Thiều Quang tiễn hắn đi, Thẩm Thiều Quang nói: “Mấy ngày tới nhi sẽ vẽ thêm vài bức tranh đưa tới.”

“Vậy phải nhờ cậy cô nương rồi.” Tần Tường lại cáo từ với bọn họ lần nữa rồi dẫn người cưỡi ngựa đi.

Lâm Yến cũng còn một đống chuyện phải xử lý, không thể ở lại đây lâu.

Hắn mỉm cười nhìn Thẩm Thiều Quang, Thẩm Thiều Quang cũng nheo mắt lại cười nhìn hắn, có những người ấy à, chỉ nhìn thôi thì trong lòng đã vui rồi, đương nhiên nếu có thể làm gì khác thì lại càng vui hơn.

Lâm Yến thấp giọng nói: “Ta đi rồi, nàng cẩn thận một chút. Ra ngoài chớ ngại dẫn theo người khác vì sợ phiền, có những người mang lòng ác độc nàng không thể lường được trước, phải đề phòng bọn hắn chó cùng rứt giậu.” Từ lúc bắt đầu vạch ra kế hoạch thì Lâm Yến đã lại lần nữa để Chu Khuê và mấy người có võ công tốt tới chỗ Thẩm Thiều Quang.

Thẩm Thiều Quang ngoan ngoãn gật đầu, lại dịch lại gần thêm bước nữa, híp mắt cười nói: “Yến lang… Nói một câu dễ nghe xem?”

Lâm Yến lại nghĩ tới con cáo đã săn được lại để chạy mất kia, lúc con cáo kia nhìn những con chim con thú bị rơi vào bẫy của hắn chắc hẳn cũng có dáng vẻ thế này nhỉ?

Lâm Yến lại sẵn lòng làm những con chim con thú kia, hắn yên lặng một lúc, khẽ liếm môi dưới, nhẹ giọng nói: “A Tề của ta… là cô nương tốt nhất trên đời này.”

Thẩm Thiều Quang cười như thể con cáo vừa mới được ăn một bữa tiệc toàn thịt gà.

 

Đăng trong Tiệm cơm nhỏ thành Trường An - Bánh Anh Đào

Tiệm cơm – Chương 103

Chương 103: Lật lại vụ án Ngô Vương

Cấm quân bao vây một tòa đạo quán trong phường Thường Nhạc. Ở tiền viện, binh sĩ hùng hổ xông vào bắt giữ mấy đạo sĩ đang tụng kinh và một số khách hành hương, một đạo sĩ gắng phản kháng thì bị binh sĩ dùng sống dao đánh hôn mê, đám khách hành hương thì ôm đầu run sợ, từ hậu viện truyền tới tiếng đánh nhau đứt đoạn.

Ở một số phường khác như Phong Nhạc, Cư Đức, Phụ Hưng cũng diễn ra cảnh tượng tương tự.

Bách tính xung quanh nhao nhao chạy trốn, lại không nhịn được nhìn ngó hỏi thăm, chuyện gì thế này, có người mưu phản sao?

Đồng thời, cửa thành cũng đóng lại, đội cấm quân vây quanh phủ đệ, các loại cửa hàng buôn bán của Triệu Vương ở kinh thành, trong đó bao gồm cả quán rượu Vân Lai ở phường Sùng Hiền.

Động tĩnh lớn thế này, tin gì cần biết đều đã biết, mấy vị tướng công, thượng thư bộ Hình, Đại Lý Tự Khanh và các công khanh có liên quan tới bộ Hình vừa sai người dò hỏi vừa vội vàng mặc quan phục chuẩn bị tiến cung. Các quan viên còn lại có hỏi thăm, có sợ hãi, có suy đoán…

Trống chiều đã điểm, đêm nay thành Trường An đã định sẵn là không thể yên ổn.

Trong cung Đại Minh, hoàng đế hỏi thăm Hà Dương Vương một số chi tiết. Sau khi nghe xong chuyện “gặp phục kích ở cửa cung” thì hoàng đế sầm mặt: “Không ngờ rằng trẫm đây ngày ngày đều ngủ chung với rắn độc.”

Hà Dương Vương mỉm cười: “Thảo nào mấy hôm trước ngươi cứ nói ngủ lạnh buốt…”

Cơn giận của hoàng đế bị câu “lạnh buốt” của hắn dập mất một nửa.

Hoàng đế nhếch miệng: “Ngươi còn mặc cái thứ xiêm y này làm gì nữa? Đi, đi đổi một bộ thường phục của ta đi!”

“Y phục của ngươi ta đâu có mặc được…”

Hoàng đế cho rằng hắn đang nói chuyện vượt bổn phận, đang định lên tiếng thì lại nghe Hà Dương Vương nói: “Thắt lưng ngươi to thế, ta mặc không đẹp.”

Hoàng đế: “…”

Hoàng đế thật sự là chỉ cần gặp vị huynh đệ này lại thấy phiền, đang định bảo hắn về nhưng cuối cùng vẫn lo lắng: “Bên ngoài không yên ổn, ngươi vừa mới chắn họa giúp ta, chớ để đám giặc kia chó cùng rứt giậu lại nhằm vào ngươi. Tới điện Minh Đức nghỉ ngơi đi, chờ vài ngày nữa rồi lại đi.”

“Tạ ơn a huynh, nhưng mà đám mỹ nhân của ta…” Thấy sắc mặt hoàng đế, Hà Dương Vương không dám lỗ mãng, bĩu môi, hành lễ xong rồi đi ra ngoài.

Ở trước cửa điện vừa khéo gặp thống lĩnh cấm quân Tần Tường và thiếu doãn Kinh Triệu Lâm Yến.

Ba người cũng coi như từng “chung áo” nằm chung một mương, thấy sắc mặt Tần Tường, Hà Dương Vương nhướng mày: “Sao thế? Không thuận lợi sao?”

Tần Tường đang định lên tiếng thì Hà Dương Vương đã giơ tay lên ngăn lại: “Khỏi phải nói với ta, thánh thượng đang chờ các ngươi đấy.” Nói xong thì vắt tay sau lưng nhàn nhã cất bước.

Đúng là Tần Tường đang bực bội trong lòng, vừa rồi mới được báo lại là không bắt được tên Lý Vực con trai thứ tư của Triệu Vương! Ban đầu chuyện đang trôi chảy lại vì vậy mà trở thành không trọn vẹn, hơn nữa còn là một sự không trọn vẹn rất to. Mặc dù Tần Tường cũng không phải là người nhìn xa trông rộng gì nhưng cũng biết bắt được Lý Vực đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với việc chống lại Triệu Vương sau này. Thật là một đám nuôi tốn cơm!

Đối diện với Lâm Yến, Tần Tường hơi ngượng ngùng. Toàn bộ kế hoạch mai phục đều là do vị Lâm thiếu doãn này tấu lên, do cấm quân hợp tác với phủ Kinh Triệu thực hiện. Người của Kinh Triệu có hạn, truy lùng và điều tra ngầm lại là thế mạnh của cấm quân, cho nên Lâm thiếu doãn đã giao lại tin tức rõ ràng cùng với hai địa điểm mà bọn họ truy tìm được cho cấm quân, cấm quân lại từ đó tìm được một sào huyệt khác của đối phương. Lúc đó một người trong số đó từng thấy một lang quân trẻ tuổi mặc áo gấm, người đi điều tra cho rằng đó là Lý Vực, nhưng tới khi bắt được thì… ai ngờ lại chỉ là thế thân! Tên Kiều Hợi kia quả không hổ là mưu sĩ đắc lực bên cạnh Triệu Vương.

Bỏ lỡ mất thời cơ tốt nhất rồi, nếu muốn tìm một người giữa kinh thành lớn thế này…

“Chạy rồi?” Nghe xong lời bẩm báo của Tần Tường, hoàng đế cau mày một cái, dừng một lúc rồi lại nói: “Hắn đã tới rồi thì chắc chắn là không thể trốn xa được, lúc xảy ra chuyện ắt phải ở trong kinh. Cửa thành đã đóng, hắn cũng không chạy đi đâu được, cứ lùng bắt khắp trong thành là được.”

Tần Tường và Lâm Yến đều hành lễ đáp vâng.

Bởi vì chuyện tra xét phủ đệ và sản nghiệp của Triệu Vương vẫn đang được tiến hành, Tần Tường lại nuôi hy vọng “lỡ như” bắt được Lý Vực, bẩm báo xong tiến trình tra xét và cả chuyện Lý Vực thì Tần Tường quay trở lại giám sát, để lại Lâm Yến một mình bẩm tấu.

Hoàng đế rất hài lòng với vị thiếu doãn Kinh Triệu trẻ tuổi này, từ chuyện mai phục cứu giá lần này tới chuyện xử lý tin đồn ở kinh thành đợt hè và cả biểu hiện hằng ngày ở phủ Kinh Triệu đều lộ rõ thái độ quả quyết nghiêm túc, hơn nữa còn rất có sách lược, không liều lĩnh một cách mù quáng. Kinh Triệu ở nơi nhiều quý nhân, lắm thị phi, nếu phủ Kinh Triệu mà yếu đuối hoặc ngu xuẩn thì kinh thành sẽ lập tức hỗn loạn.

Mấy năm nay, phủ doãn và thiếu doãn phủ Kinh Triệu thường xuyên thay đổi, hoàng đế cảm thấy lần này rốt cuộc cũng tìm được một người làm được lâu dài rồi – hoặc cũng nên đổi một chút, để Bạch lão tới Lạc Dương dưỡng lão đi, chẳng phải hắn vẫn luôn mong mỏi được nhậm chức ngoài kinh sao? Thế thì đưa Lâm Yến lên làm Kinh Triệu doãn, tìm cho hắn một vị quan phụ tá.

Nhìn Lâm Yến, hoàng đế cười một cái, cái gì cũng tốt hết, chỉ có tuổi hơi trẻ quá…

Khi hoàng đế đang suy tính về vấn đề bổ nhiệm quan viên trong phủ Kinh Triệu thì suy nghĩ trong đầu Lâm Yến lại là… tra xét lại vụ án Ngô Vương năm đó.

Tra xét hồ sơ về Thẩm gia thì không tránh khỏi liên quan tới vụ án Ngô Vương. Từ trong hồ sơ, từ lời kể lại của Sở Lệ và những người biết chuyện khi đó, từ một số chi tiết lặt vặt tìm được ở phủ Kinh Triệu và bộ Hình, Lâm Yến có vài suy đoán về vụ án Ngô Vương – trong số những người bị ảnh hưởng nặng nề nhất trong vụ án Ngô Vương thì nổi tiếng nhất không phải là Thẩm công mà là tiết độ sứ Hà Đông Hoắc Sâm.

Nhưng có khi thật ra là Ngô Vương bị Hoắc Sâm liên lụy thì sao? Dù sao Ngô Vương cũng chỉ là một thân vương nhàn nhã, mà tiết độ sứ Hà Đông cai trị Thái Nguyên, quản lý nhiều châu quận, trong tay lại có binh để đề phòng người Hồ vi phạm cảnh giới, vị trí của hắn quá quan trọng.

Hoắc Sâm gặp chuyện không may, người được lợi là ai? Triệu Vương được nuôi dưỡng ở phủ Thái Nguyên nhận lệnh tiếp quản binh quyền của Hoắc Sâm, rồi quản tới tận bây giờ…

Vừa khéo mùa hè năm ngoái khi lời đồn nổi lên khắp kinh thành, tình huống khi đó giống với những năm cuối đời của tiên đế cỡ nào, mà toàn bộ suy đoán của A Tề đều chĩa vào Bắc Đô Thái Nguyên. Trên người mấy tên cướp kia có mùi thịt muối, ở cùng phường mà vừa có quan hệ với Bắc Đô vừa có một lượng lớn thịt muối thì chính là quán rượu Vân Lai – đó là sản nghiệp của Triệu Vương.

Lúc đó Lâm Yến từng sai người lén vào kho của quán rượu Vân Lai để kiểm tra, nơi đó được quét dọn rất sạch sẽ, hoàn toàn chẳng có dấu vết gì, nhưng có đôi lúc bản thân việc quá sạch sẽ lại chính là dấu vết.

Nhưng chỉ dựa vào những suy đoán này, dựa vào chút lời khai móc ra được từ trong miệng đám tử sĩ thì không thể nào định tội cho một thân vương đang trấn giữ cả một vùng.

Nhưng bọn họ lại quá thiếu kiên nhẫn, mùa đông năm nay lại bắt đầu, lần này lại còn làm lớn hơn. Mấu chốt là địa điểm bọn họ chọn để ra tay lại là ở Thẩm Ký, mà ở đó thì có một A Tề có thể tới làm quan ở bộ Hình hoặc Đại Lý Tự…

Dính dáng tới cấm quân, dính dáng tới người Hồ, hành động quá vội vã, sắp xếp mai phục cho bọn hắn là chuyện hết sức dễ dàng.

Nghĩ tới Thẩm Thiều Quang, Lâm Yến mỉm cười một cái, sau đó nghiêm trang lấy từ trong tay áo ra bản ghi chép lại phần thẩm vấn sơ bộ những phạm nhân bắt được ở quán rượu. Thời gian ngắn, lại đều là tử sĩ nên kết quả thu được có hạn, đành phải để người của bộ Hình và Đại Lý Tự từ từ tiến hành.

Được trình lên cùng còn có tình hình điều tra sư môn và quê nhà Ngụy Châu của “Đại Đức Thanh Diệu Phụ Nguyên chân nhân” do hắn sai người âm thầm tới Bắc Đô tiến hành.

Lâm Yến thỉnh tội với hoàng đế trước: “Thần chưa được bệ hạ cho phép đã tự ý điều tra vụ án Ngô Vương năm đó, xin bệ hạ trị tội.”

Hoàng đế khoát khoát tay. Nếu đổi lại là trước kia thì hắn làm vậy, hoàng đế chắc chắn sẽ không vui, nhưng bây giờ thì chỉ cảm thấy hắn thông minh nhanh nhạy.

“Mời bệ hạ xem, đây là những thứ tra được ở Bắc Đô.”

“Tiên đế băng hà, vị Đại Đức Thanh Diệu Phụ Nguyên chân nhân kia thanh thản rời đi, người quen bên ngoài nói hắn đã đắc đạo thành tiên bay về trời, cũng có người nói hắn đã cưỡi mây bay đi, nhưng trên thực tế thì hắn đã tới, hoặc nói đúng hơn là đã trở về Bắc Đô. Ở đây có lời chứng của đạo sĩ trong đạo quán Thanh Tịnh ở Thái Nguyên, một vị “quý nhân” của phủ Triệu Vương mỗi năm đều tới đạo quán trú lại mấy ngày, nghe nói là yêu tấm bia đá ở sau đạo quán. Vị “quý nhân” này đã qua đời năm kia, chôn ở trên núi phía sau đạo quán kia, tên viết trên bia đá là “Vương Thanh Diệu”.”

“Mời bệ hạ xem phần Ngụy Châu ở sau đó, vị chân nhân này họ “Vương”, không có tên, người ở quê chỉ gọi theo thứ hạng trong nhà là “đại lang”. Thanh Diệu chân nhân và tên Kiều Hợi mà chúng ta bắt được hôm nay vừa là đồng hương lại vừa là đồng môn, tên Kiều Hợi này vốn tên là Hắc Thỉ*, lúc còn nhỏ xuống sông bắt cá bị cá cắn, da thịt bị thối rữa phải dùng dao cắt bỏ, để lại một vết sẹo rất lớn – theo lời của Lưu lão tẩu chơi cùng với bọn họ năm đó thì là do vị chân nhân kia đích thân xử lý. Thần đã nhìn thấy vết sẹo này.”

* Thỉ đồng nghĩa với Hợi.

“Mời bệ hạ xem tiếp…”

Ngô Vương bị hoạch tội vốn là vì “lời sấm” của đạo sĩ kia, sau lại liên lụy càng lúc càng rộng, lại càng có nhiều “chứng cứ phạm tội”, Lâm Yến bắt đầu từ đây, tên đạo sĩ kia vốn là kẻ lòng dạ khó lường, càng khỏi bàn tới “lời sấm” gì!

Trước mặt những chứng cứ thế này, hoàng đế thật sự không thể nào nói những lời như là “Chỉ tra chuyện lần này, chuyện năm đó đã qua rồi cứ để nó qua đi”.

Hoàng đế mỉm cười nhìn Lâm Yến: “Tra xét toàn diện như vậy chắc chắn không phải là chuyện một sớm mà chiều mà được. Sao An Nhiên lại nghĩ tới chuyện tra xét vụ án Ngô Vương?”

“Không phải vì Ngô Vương, mà là vì nhạc phụ của thần là Thẩm công.” Lâm Yến bình tĩnh nói.

Hoàng đế hơi ngẩn ra: “Thị lang bộ Lễ Thẩm Khiêm?”

“Phải.”

Hoàng đế hơi nhíu mày, Thẩm Khiêm cáo Trần đạo sĩ họa quốc, bất bình thay Ngô Vương, tiên đế nổi giận, xử phạt rất nặng, chính hắn bị chém đầu, con trai xử treo cổ, vợ và con gái… vào Dịch Đình?

“Vị hôn thê của thần là cung nhân được thả ra mùa xuân năm kia. Không biết bệ hạ đã từng gặp qua chưa, chính là chủ quán Thẩm Ký ở Đông Thị.”

Hoàng đế chợt hiểu ra, trước đó hắn chỉ nói là chủ quán Thẩm Ký phát hiện ra đầu mối, mình chỉ đoán rằng bọn họ là bằng hữu, hắn chính là người viết lời tựa cho tập thơ kia…

Hoàng đế cười hỏi: “Lời tựa của tập thơ kia là do ngươi viết sao?”

Lâm Yến mỉm cười: “Là do thần viết.”

Hoàng đế cười: “Ta còn tưởng là có hiền tài bị lỡ mất, thì ra là đã ở trên triều của trẫm rồi.”

Lâm Yến cũng cười.

Nghĩ tới chuyện Thẩm Ký cẩn thận không bán đồ ăn cho cấm quân, còn cả món lẩu, thực đơn, tập thơ, hí lộng, Thẩm cô nương tính ra cũng thật là một… Hoàng đế hơi lưỡng lự, nếu nói “có tài” thì có vẻ không chính xác lắm, tài nữ ở trong kinh cũng đâu được như thế này, nếu nói “thú vị” thì lại không đủ…

Hoàng đế cười đùa như có ẩn ý: “Ánh mắt của An Nhiên tốt thật đấy.”

Lâm Yến mỉm cười gật đầu: “Nàng ấy thật sự rất tốt.”

Hoàng đế chưa từng thấy ai lại mặt dày khen nương tử nhà mình như vậy, không biết phải đáp lại thế nào.

“Mùa hè năm ngoái, đám cướp trong vụ án lời đồn từng mưu đồ dùng nàng để uy hiếp thần, nàng dù đứng trước gian nguy cũng không sợ hãi, chuyển dao giết cá cho thần, sau còn dựa vào mùi trên người đám cướp đó và cả khẩu vị của bọn hắn để suy đoán…”

Thấy hắn lại vòng trở lại vụ án Triệu Vương, vụ án Ngô Vương, hoặc nói đúng hơn là vụ án Thẩm Khiêm, hoàng đế mỉm cười, thôi, dù sao cũng nên cho một lời thoả đáng.

Thấy hoàng đế đồng ý, Lâm Yến trịnh trọng hành lễ.

Thấy hắn nghiễm nhiên tự coi mình như đã là con rể của Thẩm Khiêm, hoàng đế đột nhiên thấy chua xót, hậu cung của mình rất nhiều mỹ nữ, vốn dĩ đã cảm thấy như vậy rất tốt, nhưng bây giờ thấy hắn như vậy lại cảm giác dường như mình thiếu mất cái gì đó.

“An Nhiên và Thẩm cô nương lục lễ đã tới bước nào rồi?”

Lâm Yến nhấp môi: “Vẫn đang chờ trưởng bối Thẩm thị tới kinh chủ trì.”

Hoàng đế thôi không chua xót nữa, ha ha, thì ra chỉ là tự mừng một mình trước mà thôi…

 

 

Đăng trong Tiệm cơm nhỏ thành Trường An - Bánh Anh Đào

Tiệm cơm – Chương 102

Chương 102: Tập kích trong quán rượu

Quán rượu Thẩm Ký ở Đông Thị.

Một đạo sĩ mặc chiếc áo bào cũ kĩ rách nát ngồi cạnh bàn ăn cách cửa ra vào không xa, trước mặt bày một đĩa đậu hoa lan, một bầu rượu, một cái chén, một đôi đũa trúc, trên nền đất cạnh hắn thì đặt một lá cờ vải “linh đan diệu dược”, chuông lắc và một cái hầu bao bẩn thỉu. Thành Trường An đầy rẫy chùa miếu đạo quán, loại đạo sĩ cầm cờ lắc chuông bán thuốc dạo như thế này lại càng đếm không xuể, cho nên chẳng ai để ý tới hắn.

Kiều Hợi bưng chén rượu lên nhấp một hớp, vốc một ít đậu hoa lan cho vào trong miệng, chậc, cũng thơm đấy chứ.

Hai người trên sân khấu trước mặt đang diễn một vở liên quan tới chuyện đề tên bảng vàng, một người thi nhiều năm mới đậu, thân nhân và bằng hữu của hắn đều thay đổi thái độ, trước kia thì ngạo mạn khinh khi bây giờ lại tươi cười cung kính. Kiều Hợi cũng cười to như những khách nhân khác.

Giữa một quán rượu náo nhiệt thế này, ăn vài ba món thanh đạm, uống chút rượu nhạt, Kiều Hợi hơi ngẩn ra, nếu năm đó hắn và sư huynh không được Triệu Vương nhìn trúng thì chắc là bây giờ đang sống cuộc sống như thế này nhỉ?

Năm kia lúc sư huynh lâm bệnh nguy cấp còn nhớ chuyện trước đây cùng nhau lên núi đào rau dại, xuống sông bắt cá, dường như rất hoài niệm. Kiều Hợi cảm thấy, sư huynh đã có quyền như vậy, dù sao hắn cũng từng là người bên cạnh hoàng đế, một câu nói có thể khiến triều đình nổi gió, đi trên đường thì đám công khanh tôn thất cũng phải nhường bước, dù cuối cùng không thể giúp được Triệu Vương giành ngôi thì kiếp này cũng có thể tính là không có gì đáng tiếc.

Mà hắn thì, Kiều Hợi nhìn quán rượu Thẩm Ký này, trước kia thực sự không ngờ rằng vận mệnh sẽ lại gắn liền với một quán rượu thế này. Nếu sự thành, sau khi đại vương đăng cơ, luận công ban thưởng, đương nhiên hắn sẽ thành bậc quyền cao lộc hậu, nở mày nở mặt, nếu như không thành… Kiều Hợi nhấp một hớp rượu, dù sao cũng đã từng này tuổi rồi, cũng không tính là chết sớm.

Kiều Hợi lại nghĩ tới đứa con trai thứ tư của Triệu Vương, không khỏi nhíu mày…

Một nam tử trẻ tuổi ăn mặc khá sang trọng đi vào, đi theo sau còn có mấy tên nô bộc.

Quản sự đi tới chào hỏi.

Lang quân trẻ tuổi vừa đi lên lầu hai vừa cười nói: “Tới hôm tổ chức chúc đỉnh yến các ngươi giữ cho ta một gian phòng bao lớn lớn. Mặc dù không phải là sĩ tử khoa này nhưng mỗ và các bằng hữu cũng muốn được mở mang tầm mắt.”

Quản sự cười nói: “Vậy hôm nay lang quân chọn một gian luôn đi. Đã không còn mấy phòng bao nữa, sáu gian đã được đặt, hiện còn lại ba gian.”

Lang quân trẻ tuổi nhíu mày, vừa như cố ý vừa như vô tình liếc mắt nhìn vị đạo sĩ ăn mặc cũ kĩ rách nát: “Nhiều người thế sao?”

“Lang quân nói đúng rồi, một bữa tiệc như vậy, ai mà không muốn xem một chút? Tới lúc đó còn đề tên trên lụa…” Quản sự cùng lang quân trẻ tuổi đi lên lầu hai.

Kiều Hợi lại nhấp một hớp rượu, ba gian… Thế cũng đủ rồi. Trước giờ những chuyện như thế này đều là đột ngột ra tay đánh úp, hoàng đế cải trang ra ngoài thì chắc bên cạnh cũng không mang theo quá nhiều người.

Ngoài cửa, cô nương Thẩm Ký và vị lang quân của cửa hàng bánh hoa Thiệu gia cùng nhau đi vào.

Lúc đi ngang qua hắn, Kiều Hợi nghe thấy Thiệu lang quân đang cười nói: “Ta xem sổ sách rồi, có khi sang năm là ngươi có thể mua nhà ở Vị Thủy đấy.”

Cô nương cười đáp: “Bồ đồ Vị Thủy ngon lắm, tới lúc đó chọn được bồ đồ tươi nấu canh sữa…”

Kiều Hợi cười một cái.

Thời gian trôi nhanh như bóng câu qua cửa sổ, cuối cùng cũng tới ngày diễn ra chúc đỉnh yến.

Quả thật đám sĩ tử tới rất đông, cả trong lẫn ngoài quán rượu còn có rất nhiều thực khách bình thường tới xem, từ trước tới giờ bách tính Trường An đều rất hứng thú với những dịp náo nhiệt văn nhã thế này.

Tần quản sự đích thân hầu hạ bút mực. Đám sĩ tử thoải mái đề tên lên tấm lụa dài treo trên tường ngoài quán rượu, đi vào quán rượu trong lời chúc phúc của quản sự và sự chú ý của mọi người.

Tới giờ lành, Tần quản sự nói vài câu mở màn, sau đó giao lại cho vị sĩ tử tài cao đức tốt đã được đám sĩ tử đề cử từ trước. Phẩm hạnh của vị này thế nào thì chưa biết, nhưng tài văn chương thì đúng là có thật, trước là kể chuyện, sau lại ca vịnh, chữ nào chữ nấy đều như châu như ngọc. Mà chủ nhân của quán rượu là Thẩm cô nương và Thiệu lang quân thì chỉ đứng bên ngoài híp mắt cười xem.

Kiều Hợi ngồi ở góc cạnh lan can lầu hai, liếc nhìn phòng bao, nhìn đám sĩ tử và thực khách dưới sảnh lớn, nhìn quản sự, tiểu nhị và cả người của mình, sau đó dừng mắt ở cửa vào, người kia vẫn chưa xuất hiện.

Trái tim Kiều Hợi giống như bị buộc vào sợi tóc, cứ lắc qua lắc lại liên tục. Không biết hoàng đế có tới hay không, có thể một trận xử xong hắn ở trong quán rượu này hay không?

Kiều Hợi tự an ủi mình, dù cho không thể xử xong hắn ngay tại đây thì sau đó vẫn còn người mai phục ở cạnh chợ ngựa, ngoài cửa cung cũng có người của mình. Kiều Hợi nheo mắt lại, nếu hắn xuất cung thì sẽ không thể sống sót trở về!

Đợi chừng hai khắc nữa, khi đám sĩ tử đã lần lượt giới thiệu xong quê quán tên tuổi của mình rồi thì mành được vén lên, là thống lĩnh cấm quân Tần Tường! Hắn ân cần khom người dẫn đường cho người bên cạnh, người kia trùm áo choàng có mũ, lộ ra hàng mày đôi mắt xinh đẹp.

Đúng rồi, đúng rồi… Chính là hắn! Kiều Hợi từng gặp hoàng đế vài lần, tướng mạo khá anh tuấn, đặc biệt là đôi mắt.

Kiều Hợi đưa mắt ra hiệu cho người của mình, khẽ gật đầu. Sợi dây cung vô hình trong quán đã được kéo căng hết cỡ.

Một người theo hầu của hoàng đế đi tới một bàn bên cạnh lan can cách cầu thang không xa, xin đổi chỗ với khách nhân đã ngồi sẵn ở đó từ trước, vị khách kia khá dễ tính, nhường lại chỗ ngồi cho hắn.

Hoàng đế ngồi xuống, từ góc độ của Kiều Hợi chỉ có thể nhìn thấy phía sau lưng hắn. Cấm quân và đám người theo hầu có nhóm canh giữ ở lầu hai, có nhóm canh gác ở lầu một, còn có vài ba người kiểm tra phòng bao. Hoàng đế đưa tay chỉ chỗ ngồi đối diện mình, Tần Tường nhún nhường một lúc rồi cuối cùng cũng ngồi xuống. Xem ra chuyện hoàng đế tin yêu Tần Tường không phải là lời bịa đặt.

Quan sát hoàng đế và Tần Tường, Kiều Hợi cũng chẳng lo lắng chuyện trong phòng bao, tất cả đều đã cải trang, trừ phi hỏi thăm kĩ càng, nếu không sẽ không có vấn đề gì.

Tiểu nhị dâng thực đơn lên, hoàng đế lật ra xem một cái, loáng thoáng nghe thấy hắn gọi lẩu canh sữa, mấy loại thịt dê, cá, đậu phụ, tiểu nhị cúi người hành lễ rồi cầm thực đơn đi xuống lầu.

Có lẽ vì lần trước đã lộ mặt, cho nên hôm nay hoàng đế không cởi chiếc áo khoác có mũ trùm đầu.

Đám sĩ tử dưới lầu đã vào chỗ ngồi, trong lúc chờ mở tiệc thì hí lộng lên sân khấu.

“Tới tham dự chúc đỉnh yến hôm nay đều là trọng thần tương lai cả đấy.” Một người diễn hí nói.

Một người diễn hí khác nói: “Ta nặng lắm, chẳng nhẹ hơn cối xay bao nhiêu đâu.” Vừa nói vừa đo thắt lưng của mình.*

* Chơi chữ: “trọng” trong “trọng thần” nghĩa là nặng.

“… Ta đang nói là, đều là đỉnh thần.”

Người kia lưỡng lự một lúc: “Thế chắc ta là canh sữa…”

* Như đã đề cập ở chương 100, nồi lẩu ở thời này thường được gọi thành “đỉnh” (vạc), cho nên người này đã cố ý bẻ nghĩa “đỉnh thần” thành nồi lẩu, ý rằng người khác là nồi lẩu thì mình là nước lẩu.

Tất cả mọi người đều cười to. Hoàng đế cũng cười lớn tiếng.

Đúng vào lúc này! Kiều Hợi phất tay.

Một mũi phi tiêu dài bay về phía hoàng đế – nhưng bị một mũi tên khác từ trên xà nhà bay tới đánh bay.

Kiều Hợi giật mình.

Chỉ chớp mắt, người của Kiều Hợi đang mai phục ở sảnh lớn lầu một và trên lầu hai đều bắt đầu hành động, thích khách trốn trong phòng bao cũng xông ra, nhưng số “thực khách” lôi đao kiếm ra còn nhiều hơn, hoặc vây quanh che chở hoàng đế, hoặc đánh nhau với người của Kiều Hợi.

Những người đặt trước phòng bao mà Kiều Hợi đã cho người đi hỏi thăm và biết là có già có trẻ có phú có quý cũng đều lao ra, vây người của Kiều Hợi ở trong phòng bao, một “cô nương” trong số đó dùng trường kiếm vừa nhanh vừa tàn ác, một sĩ tử trung niên trông như con ma bệnh thì tung nắm đấm như vũ bão.

Như thế này thì sao Kiều Hợi có thể chưa nhận ra nữa? Thế này là đã trúng mai phục!

Một thương nhân người Hồ ngồi cách hoàng đế không xa quát lên với đám người đang lộn xộn: “Truy bắt nghịch tặc! Người không liên can tránh sang một bên!”

Những thực khách bình thường vừa rồi còn đang hết hồn hết vía nghe được lời này thì như nghe được tiếng Phật, nhao nhao trốn vào dưới bàn, cạnh tường, cạnh quầy.

Hoàng đế không nói tiếng nào đứng yên tại chỗ, Tần Tường thì che ở trước mặt hoàng đế cùng rất nhiều thị vệ.

Thấy rõ thế yếu thuộc về phe mình, Kiều Hợi biết hôm nay không làm nên được chuyện gì ở chỗ này. Đánh nhau thế này quan trọng là ở “mưu”, đối phương đã lường được trước, mai phục cung thủ trên xà nhà, số người mai phục trong phòng bao và ngồi phân tán ở khắp nơi nhiều gấp mấy lần của mình, lại lợi dụng được địa hình, tính đúng thời cơ ngăn người của mình ở trong phòng bao, chiếm được thiên thời địa lợi nhân hòa, như vậy thì sao mình có thể không bại?

Kiều Hợi nhìn chằm chằm “thương nhân người Hồ” kia, muốn biết mình đã thua trong tay vị tướng quân nào trong triều. “Thương nhân người Hồ” kia cũng nhìn hắn, đưa tay ra hiệu, mấy người đi về phía Kiều Hợi.

“Kiều công, đi tới cửa sổ!” Mấy người thân tín của Kiều Hợi vẫn đang liều chết bảo vệ hắn.

Nhưng mà đi thế nào được chứ?

Cuối cùng kiếm của đối phương cũng đã gác trên cổ hắn. Kiều Hợi nhìn một cái, người của mình đã chẳng còn ai.

Chỉ chốc lát, bên trong quán rượu đã yên ổn trở lại.

Người chỉ huy xé râu quai nón và lông mày giả trên mặt, lộ ra khuôn mặt tuấn tú, mặc dù hắn vẫn mặc trang phục người Hồ, mang mũ người Hồ nhưng Kiều Hợi cũng đã nhận ra đó rõ ràng là thiếu doãn phủ Kinh Triệu Lâm Yến!

Kiều Hợi nở nụ cười thê lương, không ngờ rằng mình lại giẫm vào vết xe đổ của đám người Trịnh Nhị…

Lâm Yến đi tới, hành lễ với “hoàng đế”: “Đã để đại vương hoảng sợ.”

“Lâm thiếu doãn chớ đa lễ, đã lâu lắm rồi bản vương chưa được trải qua một chuyện vui thế này.”

Kiều Hợi mở to hai mắt, cũng phải, nếu đã là cái bẫy thì sao hoàng đế có thể mạo hiểm chứ? Người đó đương nhiên là thế thân rồi.

Mà người nói kiểu này thì chỉ có thể là vị Hà Dương Vương phóng túng kia mà thôi.

Hà Dương Vương cong khóe miệng, lúc không nói chuyện thì có vẻ ung dung khí phách. Vị đại vương này là một nhân vật đặc biệt trong đám vương công tôn thất ở kinh thành, ví dụ như nói về thân phận thì hắn là huynh đệ ruột duy nhất của đương kim hoàng đế vẫn còn sống sót; hoặc ví dụ như nói về tính tình thì hắn là một người hết sức phóng đãng, nuôi một đống nam sủng, nghe nói người được sủng ái nhất trong số đó là một người bán bánh nướng, vì vậy mà trong kinh mới có câu nói đùa rằng “Sinh nữ có thể làm phi, sinh nam cũng chẳng thiệt”; hoặc ví dụ như nói về quan hệ giữa hắn với hoàng đế, tấu chương mà các ngự sử viết tố cáo hắn chồng lên phải cao tới ba thước, thế nhưng vị đại vương này lại vẫn cứ thong dong như thế.

Mặc dù Hà Dương Vương có “tật gì đó” nhưng lại rất tôn kính đám sĩ phu như Lâm Yến, không dám không đứng đắn với bọn họ. Đứng trước mặt vị này, Hà Dương Vương tự thêm mấy câu trong lòng, nếu mà có gì đó với hắn thì sợ rằng mình sẽ là người bên dưới… Người thế này vẫn nên để cho a huynh dùng trên triều thì hơn.

Người theo hầu của Lâm Yến đưa cho Hà Dương Vương một cái ấm, Hà Dương Vương nhíu mày, vẩy máu gà ở bên trong lên ngực mình, nghiêng đầu nhìn Tần Tường, nổi tính đùa dai, tiện tay bôi lên mặt hắn.

Tần Tường cười bất đắc dĩ mặc cho hắn bôi: “Để nô tài đỡ đại vương.”

Tần Tường đã xem xong một trận mai phục đẹp mắt, mỉm cười nói với Lâm Yến: “Vậy nơi này phải nhờ cậy Lâm thiếu doãn rồi.”

Lâm Yến trịnh trọng gật đầu, hành lễ tiễn bọn họ.

Tần Tường vốn không thích đám đại thần trong triều, nhất là những đại thần xuất thân danh gia vọng tộc, kẻ nào kẻ nấy đều kiêu ngạo khinh người, ở trong mắt bọn họ thì người như hắn dù có quyền cao chức trọng thì có lẽ cũng chẳng bằng bùn đất. Thế nhưng lần này lại thay đổi cách nhìn đối với vị Lâm thiếu doãn này, kiêu ngạo thì có kiêu ngạo nhưng cũng được người khác yêu mến, có lòng mà cũng kiên định.

Chiến cuộc vừa mới kết thúc, mọi người vẫn còn chưa hoàn hồn thì vị hoàng đế thật thật giả giả kia đã che ngực dẫn cấm quân và thị vệ đi.

Nhìn bóng lưng Hà Dương Vương, Kiều Hợi tuyệt vọng nhắm mắt lại, nhóm người Hồ mai phục giữa đường e là không đảm bảo được, những người được sắp xếp ở trong cung để đề phòng hoàng đế có thể sống sót trở về thì chặn giết chắc cũng không đảm bảo. Chuyện gì đối phương cũng có thể lường được trước. Giờ chỉ mong tứ lang có thể chạy thoát.

Lâm Yến chậm rãi đi tới, mỉm cười hỏi: “Kiều công sư đệ của Đại Đức Thanh Diệu Phụ Nguyên chân nhân?”

Kiều Hợi mở to mắt.

 

 

Đăng trong Tiệm cơm nhỏ thành Trường An - Bánh Anh Đào

Tiệm cơm – Chương 101

Chương 101: Con trai thứ tư của Triệu Vương

Một đạo quán trong phường Thường Nhạc cạnh Đông Thị của thành Trường An.

Một đạo sĩ lắc chuông bán thuốc dạo đẩy cửa hông đi vào, chạm mặt hai vị khách hành hương từ trong đại điện đi ra, lão đạo sĩ cười thi lễ với bọn họ.

“Đạo trưởng chỉ bán thuốc thôi hay còn xem bệnh nữa? Có thể xem tà ma không?” Một vị khách hành hương hỏi.

Lão đạo sĩ còn chưa trả lời, vị khách hành hương kia đã bắt đầu lải nhải, nói mẫu thân mình từ sau Tết Thượng Nguyên thì bắt đầu ngủ không ngon, ban đêm đổ mồ hôi trộm, nghi là đã trúng phải tà ma.

Lão đạo sĩ bảo hắn gọt một thanh kiếm gỗ đào treo trong màn.

Vị khách hành hương kia lại hỏi tiếp kiếm này phải gọt lớn cỡ nào, gỗ đào phải chọn loại mấy năm, treo trong màn thì treo ngang hay treo thẳng đứng…

Lão đạo sĩ kiên nhẫn trả lời từng câu một.

Vị Quý lang quân sĩ tử Tô Châu kia đi ngang qua bọn họ, cười khẩy một tiếng rồi đi thẳng ra khóa viện phía sau.

Chẳng bao lâu sau, lão đạo sĩ cũng đi vào khóa viện.

Trong khóa viện khác hoàn toàn cảnh tĩnh mịch yên ắng ở tiền viện, ở ngoài cửa và cả trong sân đều có mấy “đạo sĩ” vừa nhìn đã biết là cường tráng lực lưỡng. Thấy lão đạo sĩ đi vào, tất cả đều chắp tay hành lễ.

Lão đạo sĩ đi tới trước cửa phòng, một người nô bộc trẻ tuổi khá tuấn tú vén mành lên cho hắn.

Quý lang quân đang ngồi trên sạp uống bơ sữa gừng nóng, thấy lão đạo sĩ đi vào thì cất giọng mỉa mai: “Mỗ rất tò mò, Kiều công thật sự bắt được yêu ma sao?”

Lão đạo sĩ thu lại vẻ hiền hòa bên ngoài, nghiêm nghị liếc hắn một cái: “Hôm nay tứ lang lại tới quán rượu Thẩm Ký kia sao?”

“Đúng vậy.” Quý lang quân thản nhiên trả lời.

Lão đạo sĩ thở dài một hơi, khuyên nhủ: “Đại vương để tứ lang tới đây làm người lãnh đạo. Thân phận của tứ lang cao quý, vẫn nên ít tới mấy nơi rồng rắn lẫn lộn kia thì hơn.”

“Làm người lãnh đạo…” “Quý lang quân” Lý Vực cười: “Ta còn tưởng Kiều công chỉ coi ta là vật bài trí cơ đấy.”

“Tứ lang!” Kiều Hợi nhíu mày nhìn Lý Vực: “Nếu mỗ mang lòng bất trung với đại vương thì xin trời trách phạt!”

Lý Vực không để ý, cười nói: “Mỗ cũng chỉ nói vậy thôi, Kiều công chớ để bụng. Kiều công cũng biết mà, ta tuổi trẻ làm không nên chuyện.”

“Tuổi trẻ làm không nên chuyện” là những lời trước đây Kiều Hợi nói về Lý Vực. Triệu Vương mời Kiều Hợi và mấy người phụ tá khác đánh giá về bốn đứa con trai của mình, Kiều Hợi cho rằng đại lang vừa là đích vừa là trưởng, lại khá có tài, có thể gánh được trọng trách; nhị lang anh dũng, tam lang thành thật, đều có thể giúp đỡ; còn về tứ lang do ái thiếp của Triệu Vương sinh ra thì Kiều Hợi chỉ cười: “Tứ lang còn trẻ làm không nên chuyện, để sau này rồi xem sau.” Nhưng mà bây giờ…

Nhìn chàng thiếu niên kiêu ngạo trước mặt, Kiều Hợi đột nhiên sinh ra cảm giác bùi ngùi của Gia Cát Vũ Hầu*, nghĩ tới lời của Triệu Vương trước lúc tới kinh thành, thôi, đều là vì báo đáp ơn huệ của đại vương.

* Gia Cát Lượng khi còn sống có tước hiệu Vũ Hương hầu, sau khi mất có thụy hiệu là Trung Vũ Hầu, do đó hậu thế thường hay gọi ông là Vũ Hầu hay Gia Cát Vũ Hầu để tỏ lòng tôn kính. 

Sắc mặt Kiều Hợi hòa hoãn trở lại: “Tứ lang tuy còn trẻ nhưng cũng là con rồng cháu phượng, cưỡi gió mà bay, một bước lên mây.”

Lý Vực cười đắc ý, bưng chén lên uống một hớp: “Hôm nay Kiều công gặp Vương Bá Thân, chuyện thế nào rồi?”

“Chuyện không thuận lợi. Vốn dĩ hoàng đế đã muốn cho người tới quán rượu Thẩm Ký mua nước lẩu, nhưng rồi lại bị người của Tần Tường phá hỏng.”

“Tướng quân du kích Ngô Cử nói rằng trước kia cấm quân có ý định mua nước ô mai từ quán Thẩm Ký kia, nhưng Thẩm Ký lấy lý do là cấm quân giữ trọng trách canh gác hoàng cung, đồ ăn thức uống có quy củ nghiêm ngặt để từ chối vụ mua bán này. Nếu đã cẩn thận như vậy thì chưa chắc đã chịu bán nước lẩu vào trong cung.”

Lý Vực nhíu mày, cô nương kia cẩn thận thế sao?

“Hoàng đế nghe xong thì có vẻ rất có ý khen ngợi quán Thẩm Ký này. Ngô Cử còn nói, về sau Thẩm Ký đã bán công thức nấu nước ô mai cho cấm quân, đề nghị mua luôn công thức món lẩu này.”

Lý Vực hỏi: “Hoàng đế sai người đi mua sao?”

Kiều Hợi lắc đầu: “Hoàng đế bảo là “Thứ để người ta mưu sinh, thôi bỏ đi”.”

Lý Vực thở phào một cái, không mua mất công thức là được, lại nghĩ, cô nương kia “cẩn thận” cái gì chứ? Chẳng qua là trò xảo trá của kẻ làm ăn mà thôi. Chắc chắn là công thức kia bán không rẻ đúng không? Hoặc cũng có thể là tặng một phần nhân tình để cấu kết với cấm quân? Cô nương Thẩm Ký kia trông lanh lợi lắm…

Kiều Hợi nói: “Xem ra muốn ra tay từ món nước lẩu sợ là khó thành.” Nhà bếp trong cung có quy củ, muốn ra tay trong đồ ăn thức uống là chuyện rất khó, ra tay với đồ ăn mà hoàng đế đặc biệt cho phép mang từ ngoài cung vào thì đơn giản hơn nhiều. Vương Bá Thân bằng lòng giúp đỡ, thời tiên đế hắn cũng là người có thể hô mưa gọi gió, thế mà bây giờ lại bị Tần Tường ép cho không ngóc đầu lên được.

Lý Vực cười nói: “Vừa rồi Kiều công còn trách ta chớ nên tới Thẩm Ký, bây giờ xem ra ta tới Thẩm Ký rất có ích.”

Kiều Hợi nhướng mày nhìn hắn.

“Thẩm Ký muốn mở “chúc đỉnh yến” tập hợp các sĩ tử khóa này trước kỳ thi của bộ Lễ. Với tính tình của vị đường huynh kia của ta, chẳng lẽ lại không muốn ra ngoài tham gia một bữa tiệc tụ họp nhiều nhân tài như vậy? Thái bình thịnh thế, trị bằng văn thủ bằng võ… Ha!” Lý Vực cười khẩy.

Trước đó Kiều Hợi cũng đã nhận được tin báo về bữa tiệc chúc đỉnh yến này, nhưng đánh giết hoàng đế ở ngoài cung… Có thể tưởng tượng ra được tới lúc đó cả kinh thành sẽ chìm trong cảnh máu tanh mưa máu thế nào.

Kiều Hợi vẫn nghiêng về biện pháp “ôn hòa” hơn thay vì hô đánh hô giết – hạ độc đã là quá lắm rồi. Thời tiên đế thì dùng thuốc trường sinh để làm tâm thần bấn loạn, dùng đan dược làm thay đổi tính tình, dùng lời sấm làm dao động lòng người, đứng sau lưng hoàng đế hô mưa gọi gió mới là phong cách mà hắn và sư huynh Đạo Huyền – hoặc nên nói là “Đại Đức Thanh Diệu Phụ Nguyên chân nhân” – thích và am hiểu.

Mà Lý Vực thì rõ ràng là thích tốc hành hơn: “Chúng ta dụ hoàng đế tới Thẩm Ký rồi đánh giết luôn ở đó, dứt khoát cỡ nào! Cứ ngồi chờ Vương Bá Thân trong cấm quân, chờ đám bằng hữu cũ của ngươi, chờ đám quan trong triều mà mỗi năm chúng ta đều biếu cho một đống tiền của lại chưa từng làm được cái chuyện gì thì ta e là càng chờ hoàng đế lại càng ngồi chắc ngôi rồng, sinh một đống con nối dõi, còn phụ thân ta thì lại càng già càng bệnh…” Chẳng mấy khi Lý Vực bày ra được chút dáng vẻ có lòng: “Thiên hạ này vốn nên là của phụ thân ta!”

Năm đó phụ thân của Triệu Vương là dòng chính, ông nội của đương kim thánh thượng là trưởng, làm huynh, “quân vương chọn trưởng”, cuối cùng người ngồi lên ghế rồng chính là ông nội của đương kim thánh thượng.

Người ta nói huynh đệ họ rất hòa thuận, cho nên mới che chở cho Triệu Vương hiện giờ như vậy – phái ra khỏi kinh trấn giữ Bắc Đô hơn hai mươi năm, các đại vương khác đều phải nhẫn nhịn ở trong kinh cả.

Về chuyện cũ trong hoàng thất thì Kiều Hợi chả muốn lật lại làm gì, cho dù Triệu Vương không có lý do gì thì sao chứ? Xưa nay biết bao nhiêu anh hùng làm nên nghiệp lớn ai mà chẳng danh chính ngôn thuận? Đợi tới lúc chuyện đã đạt thành rồi thì ắt sẽ có sử quan đi lo mấy chuyện này thôi.

“Chờ ta đích thân tới Thẩm Ký xem qua đã rồi lại quyết định sau.” Cuối cùng Kiều Hợi cũng hơi dao động.

Hắn từng cải trang thành sĩ tử nghèo tới Thẩm Ký vài lần. Thứ độc mãn tính kia được hạ trên đường, không có nhiều quan hệ với Thẩm Ký, sở dĩ hắn tới một là vì cẩn thận, một nữa cũng là vì lần trước đám người Trịnh Nhị hỏng chuyện ngay ở Thẩm Ký trong phường Sùng Hiền.

“Tứ lang tới Thẩm Ký chớ làm lộ chân tướng.” Kiều Hợi lại vòng trở lại đề tài ban đầu, nhìn kiểu ăn mặc sáng chói của Lý Vực với ánh mắt xoi mói: “Ngươi phải chú ý lời lẽ cử chỉ, thân phận mà ngươi đang dùng hiện giờ là con cháu nhà bần hàn.”

Lý Vực chẳng để ý: “Chẳng qua chỉ là một cái áo choàng bằng gấm Thục mà thôi, là y phục của nô bộc hạng hai trong nhà. Nếu cứ ăn mặc rách nát mãi thì làm sao có thể làm quen với cô nương kia?”

Kiều Hợi lại chẳng đáp lại được, nếu hỏi tứ lang có chỗ nào tốt thì có lẽ chính là ở cái tướng mạo này, lúc còn ở Bắc Đô đã dính dáng với không ít nữ lang…

Nhưng Kiều Hợi vẫn khuyên hắn: “Tứ lang chớ nên bất cẩn. Ngươi đã quên chuyện của bọn Trịnh Nhị rồi sao? Ban đầu bọn họ vốn muốn mượn Thẩm cô nương này để uy hiếp thiếu doãn Kinh Triệu, cuối cùng lại bại ngay tại đó.”

“Ta đã hỏi kĩ càng rồi, chẳng qua là vì Kinh Triệu nhiều người nên bọn họ mới thất thủ, thiếu doãn Kinh Triệu kia…” Lý Vực nhếch miệng: “Hẳn là cũng có đôi chút thủ đoạn. Còn về cô nương Thẩm Ký mà ngươi nói thì ta cũng đã nói chuyện mấy lần rồi, chẳng qua chỉ là một nữ tử có đôi chút khôn lỏi của người buôn bán mà thôi.”

Lý Vực cười bảo Kiều Hợi: “Chắc không phải ngươi cho rằng Thẩm Ký là đầm rồng hang hổ, cô nương Thẩm Ký kia là một kẻ lão luyện có con mắt nhìn thấu hết thảy đấy chứ?”

Kiều Hợi nghĩ tới cô nương chủ quán xinh đẹp kia, cuối cùng không nói gì nữa.