Đăng trong Tiệm cơm nhỏ thành Trường An - Bánh Anh Đào

Tiệm cơm – Chương 70

Chương 70: Ánh trăng đêm nay

70 canh xương sườn

Thẩm Thiều Quang bưng lên một bát canh xương sườn măng chua thịt khô, thơm nồng nhuận miệng, mang theo hương vị riêng biệt của thịt khô, khiến tất cả khách khứa trong quán vốn đã uống nhiều tê lưỡi cũng phải phát thèm.

“Thật là thơm!”

Thẩm Thiều Quang thấy khen thì mừng, nghe được lời này thì nheo mắt cười: “Vậy khách nhân uống thêm một chút, canh măng chua có tác dụng giải rượu.”

Khách nhân liên tục gật đầu.

Gần đây trong quán mới thêm không ít món canh và cháo mặn kích thích khẩu vị, ví dụ như món cháo cá mấy hôm trước có chia cho Lâm thiếu doãn ăn một bát, hay là canh xương sườn măng chua thịt khô rất được khách đón nhận vừa rồi. Trời nóng, cháo ngọt canh ngọt ăn nhiều cũng ngấy, uống chút đồ mặn kích thích khẩu vị, bổ sung muối, đề cao khẩu vị, uống hết một bát người cũng đẫm mồ hôi, thật là sảng khoái!

Thẩm Thiều Quang mang khay trở lại phòng bếp, nhìn A Viên đứng trước bàn ăn, trước mặt đặt một bát canh, một tay cầm quả dưa chuột một tay cầm cái bánh nướng vừng, đang ăn rất ngon lành.

“Cần gì phải như thế? Ngươi cứ ăn thong thả.” Trong bếp có ghế chân cao, Thẩm Thiều Quang kéo tới cho nàng ta.

A Viên dùng cánh tay đang cầm bánh nướng vừng xua xua: “Đứng mới ăn được nhiều.”

Thẩm Thiều Quang: “…”

70 canh thịt viên

Thẩm Thiều Quang vốn dĩ nhìn thấy bao nhiêu món như thế cũng chẳng có khẩu vị gì mà bây giờ cũng bị lối ăn của A Viên câu con sâu thèm ăn trong bụng ra, cúi người nhìn một cái, trong bát canh bí đao có lẫn mấy miếng thịt viên tròn vo, vì không bỏ nước tương nên nước canh trong vắt: “Canh thịt viên rau thơm?”

A Viên gật đầu: “Tam lang làm cho ta đấy.”

Thẩm Thiều Quang nhìn sau gáy Vu Tam, bình thường thì cứ nhăn mặt, nhưng thực ra rất quan tâm tới huynh đệ tỷ muội.

“Cho ta một bát nữa!” Thẩm Thiều Quang cười nói.

A Viên bật cười, A Xương cũng cười, ngay cả Vu Tam cũng mỉm cười, bữa cơm đàng hoàng thì không muốn ăn, thấy người khác ăn thì lại thèm, đây là cái tật gì?

Thẩm Thiều Quang bị mấy người bọn họ cười cho hơi ngượng, nhưng ai bảo món canh thịt viên rau thơm của Vu Tam đậm tình huynh đệ tỷ muội này ngon thế chứ? Thẩm Thiều Quang đột nhiên cảm thấy hành vi này của mình có hơi quen, nghĩ ngợi một lúc, Lâm thiếu doãn! Lần đầu tiên tới đã cướp mất cháo với rau của nàng và A Viên…

Thẩm Thiều Quang bắt chước điệu bộ nghiêm mặt của hắn, múc một bát canh, cầm một cái bánh nướng, đi ra sau quầy từ từ ăn.

Còn chưa ăn xong thì người theo hầu của vị Lâm thiếu doãn mà lúc nãy vừa mới nhớ tới đã tìm đến: “Lần này lại phải làm phiền cô nương rồi.”

Thẩm Thiều Quang lau miệng, cười hỏi là chuyện gì.

“Hôm nay thái phu nhân nhà ta không có khẩu vị, cả bữa trưa và bữa chiều đều không ăn được bao nhiêu, a lang nói cháo cá hôm trước ăn trong quán rất ngon, không biết có thể phiền cô nương chịu khó hầm một bát không?”

Cũng không phải chuyện phiền toái gì, Thẩm Thiều Quang đồng ý.

Lưu Thường lại cười nói: “Nghe người hầu bên cạnh thái phu nhân nói, từ sau lần trước cô nương đưa cháo tới, thái phu nhân thường xuyên nhắc tới cô nương.”

Thẩm Thiều Quang nhướng mày, cho nên…

Lưu Thường lại lần nữa cung kính hành lễ, lộ ra vẻ mặt van nài: “Phải phiền cô nương rồi.”

Thẩm Thiều Quang còn có thể nói gì nữa? Cười đáp: “Lang quân chớ khách khí, chờ hầm xong ta sẽ mang tới.”

Hầm cháo là một việc tốn thời gian, huống hồ còn phải nấu canh cá trước, sau đó mới dùng canh cá hầm cháo. Chờ tới khi cháo hầm xong thì trong quán đã chẳng còn mấy khách nữa, đã có mấy người Vu Tam lo liệu, Thẩm Thiều Quang mang theo hộp thức ăn đựng bữa khuya đi ra ngoài. A Viên vốn định đi theo nàng nhưng Thẩm Thiều Quang xua tay, bên ngoài nhiều người hóng mát, mà qua lại cũng chẳng có mấy bước, không có gì phải lo. Vu Tam liếc nàng một cái, không nói gì.

Nhưng không ngờ rằng vừa bước ra khỏi cửa thì vị nô bộc họ Lưu kia đã tới nghênh đón: “Đã phiền cô nương rồi.” Sau đó nhận lấy hộp thức ăn, cười nói: “Thái phu nhân nhà ta còn đang chờ cô nương đấy.”

Thẩm Thiều Quang mỉm cười gật đầu.

Đúng là Giang thái phu nhân còn đang chờ nàng, ngồi chờ cùng còn có Lâm thiếu doãn.

Giang thái phu nhân khách khí nói: “Đã muộn thế này còn phiền cô nương đưa tới.” Lại dặn người bên cạnh: “Lát nữa cho người đưa cô nương về.”

Lâm Yến mỉm cười nói: “A bà yên tâm, ta sẽ sắp xếp.”

Vú già A Tố nuốt lại lời đã lên đến miệng.

Giang thái phu nhân gật đầu.

Mấy người vú già bày bàn ăn, múc cháo chia đồ ăn. Giang thái phu nhân ăn nửa bát cháo, gật đầu cười nói: “Món này mùi vị rất được, không hề ngấy chút nào.”

Thẩm Thiều Quang mỉm cười nói: “Mùa hè đổ mồ hôi nhiều, trong người dễ bị thiếu muối, thiếu muối sẽ không thấy ngon miệng, thậm chí là choáng đầu uể oải, nên ăn các món canh hoặc cháo mặn. Nhưng mà cũng không nên ăn mặn quá, như vậy không tốt cho phổi và thận.”

Giang thái phu nhân gật đầu: “Đúng là gần đây thấy ăn không ngon miệng, không muốn đi lại. Đại lang mời lang trung tới, cho mấy viên thuốc nhưng uống cũng không được gì.”

Thẩm Thiều Quang cười nói: “Mùa hè năm nay đúng là nóng thật, thái phu nhân từ từ bồi bổ, sáng tối trời mát thì đi lại trong sân một lát, vận động tay chân, có lẽ sẽ cảm thấy dễ chịu hơn một chút.”

“Đại lang cũng nói như vậy.” Giang thái phu nhân cười nói, lại dặn Lâm Yến: “Ngươi sáng nào cũng luyện kiếm, ra mồ hôi, cũng ăn một bát cháo rồi lại vào triều.”

Lâm Yến mỉm cười gật đầu: “Vâng.”

Thẩm Thiều Quang cúi đầu uống một ngụm trà, thảo nào hôm đó lại cảm thấy cánh tay và thắt lưng hắn căng chặt có lực như vậy… Triều đại này đúng là không thiếu người lên ngựa có thể ra trận, xuống ngựa có thể làm thơ.

“Vừa rồi nghe lời cô nương nói dường như cũng rất am hiểu y lý?” Đám sĩ tử đọc sách không thiếu người biết chút y thuật, thậm chí còn có thể xem những mạch tượng cơ bản, nhưng các cô nương thì lại hiếm người thông hiểu cái này, cho nên Giang thái phu nhân mới hỏi như vậy.

Hồi còn trong cung có Phương tiến sĩ tinh thông y thuật, chú ý từ ăn uống cho tới dáng đi thế ngồi, kiếp trước Thẩm Thiều Quang quen thức đêm, rất hâm mộ kiểu người sống tinh tế như Phương tiến sĩ, cũng học đòi đôi chút, nhưng còn cách cái “thông hiểu” một đoạn xa, càng đừng nói tới “rất am hiểu”, lập tức cười nói: “Không ít thứ vừa là thuốc lại cũng vừa là đồ ăn cái uống, làm đầu bếp thì ít nhiều gì cũng biết đôi chút, đã để thái phu nhân chê cười rồi.”

Nghe nàng tự xưng là “đầu bếp”, Giang thái phu nhân nghiêm mặt nói: “Đã là lan thì dù đỏ thắm chốn thềm ngọc hay bám nơi khe sâu suối thẳm cũng đều là lan. Cô nương xuất thân từ Thẩm thị Lạc Hạ, chớ quá khiêm tốn.” Giang thị và Lâm thị đều là những dòng họ lâu đời ở Hà Đông, Giang thái phu nhân trải qua hơn nửa đời phồn suy vinh nhục, có những thứ đã coi nhẹ, nhưng cũng có những thứ lại không vứt bỏ được.

Thẩm Thiều Quang đứng lên, trịnh trọng hành lễ: “Thái phu nhân nói phải.”

Giang thái phu nhân dịu sắc mặt, cười nói: “Cô nương như châu như ngọc, lão phụ thật sự rất thích, cho nên mới lắm miệng nói vài câu, cô nương chớ trách.”

Thẩm Thiều Quang mỉm cười nói: “Đã nhiều năm nhi chưa được nghe lời dạy bảo của bậc bề trên, hôm nay nghe thái phu nhân dạy vậy, nhi rất cảm kích.”

Giang thái phu nhân gật đầu, nói vậy chắc hẳn là bậc trưởng bối ruột thịt trong nhà đều không còn nữa, một cô nương tốt thế này, cũng thật là đáng thương…

Lâm Yến khẽ ho một tiếng: “Tôn nhi cũng thấy hơi đói bụng, bà nội cũng chia cho ta một bát cháo đi.”

Câu nói của hắn phá vỡ bầu không khí nghiêm túc bi thương, đặc biệt là một người luôn trang nghiêm ít nói như hắn bây giờ lại đột nhiên nói ra một câu tinh nghịch như vậy, mọi người đều sửng sốt, bật cười thành tiếng.

Giang thái phu nhân cười nói: “Cho hắn đi! Cho hắn hết đi! Chẳng dễ gì mà một kẻ kén chọn như hắn lại muốn ăn thứ gì đó.”

Thẩm Thiều Quang chỉ nhấp miệng mỉm cười.

Lâm Yến hơi nghiêng đầu nhìn nàng một cái, thấy sắc mặt nàng an nhàn thì yên lòng hơn một chút.

Người khác đang ăn, Thẩm Thiều Quang không tiện cáo từ, chờ hai bà cháu họ đều đã ăn xong thì Thẩm Thiều Quang mới đứng lên: “Hôm nay đã muộn, chờ hôm khác lại tới quấy rầy thái phu nhân.”

Giang thái phu nhân bước xuống khỏi ghế, kéo tay nàng, hiền lành cười nói: “Nhất định phải tới.” Cũng đích thân tiễn nàng tới cửa phòng.

Lâm Yến cũng cáo từ bà nội: “Ta đi sắp xếp người đưa cô nương về.”

Thẩm Thiều Quang cúi người làm lễ cáo biệt với Giang thái phu nhân.

Vú già xách đèn đi phía trước, Thẩm Thiều Quang và Lâm Yến cùng nhau đi ra ngoài.

Bóng lưng hai người thành đôi, lại nhớ tới hành động mới vừa rồi của a lang, A Tố nhìn thái phu nhân, cuối cùng cũng không nhiều lời, chỉ thấp giọng nói: “Ăn cháo đổ mồ hôi, ngài cởi bớt y phục.”

Giang thái phu nhân gật đầu, đỡ tay nàng ta, chậm rãi trở lại trong phòng.

Tới cửa viện, Lưu Thường nhận lấy đèn trong tay người vú già dẫn đường, Lâm Yến quay đầu dặn dò: “Đóng cửa đi.”

Vú già cúi đầu hành lễ, lên tiếng đáp vâng.

Ba người đi xuyên qua hành lang, lại qua một khoảng sân nhỏ, đi thẳng ra ngoài. Thẩm Thiều Quang vốn cho rằng hắn sẽ cho người đưa nàng về, nhưng nhìn tình hình thế này…

Thẩm Thiều Quang mỉm cười nói: “Lang quân xin dừng bước, thực ra chỉ có mấy bước như vậy, nhi tự về là được.”

Lâm Yến hòa nhã nói: “Ta cũng tiện ra ngoài một chút.”

Thẩm Thiều Quang nhếch miệng.

Lâm Yến thì mỉm cười nhìn nàng.

Lưu Thường thật sự chỉ hận không thể làm người vô hình như trong truyền kỳ.

Vừa ra tới cổng lớn, Lưu Thường đã cười nói: “A lang, cô nương, nô đưa hộp thức ăn này về quán trước? Lỡ như trong quán cần tới thì sao?”

Thẩm Thiều Quang: “…” Đừng nói là quán rượu, bây giờ trên đường còn chẳng có ai nữa đấy!

Lâm Yến gật đầu: “Ừ, đi đi.”

Lưu Thường giao lại đèn lồng cho Lâm Yến, nhanh chân đi trước.

Trên đường, Thẩm Thiều Quang nhướng mày nhìn Lâm Yến, như cười như không: “Lang quân làm vậy không sợ lời ra tiếng vào sao?”

Lâm Yến dừng bước lại nhìn nàng, mặc dù đèn lồng chỉ có thể soi sáng đoạn đường dưới chân hai người, nhưng đêm nay trăng sáng, hắn có thể nhìn thấy rõ nét mặt hơi nén giận của nàng, đôi mắt hạnh xinh đẹp, chóp mũi cao cao, cánh môi tựa như đóa hoa, Lâm Yến chợt nhớ tới cái bánh thẻ trung thu “Nguyệt xuất giảo hề, giảo nhân liêu hề – Tất đắc giai phụ” của nàng.

Ánh mắt không dám dừng lại trên môi nàng quá lâu, Lâm Yến dời mắt đi: “Cô nương và Yến đều không phải là người sợ lời lẽ thế gian.”

Thẩm Thiều Quang bị chặn họng, ở cái thời đại mà đi xem hoa đăng ắt có người bỏ nhà theo trai, Tết Thượng Tị nam nữ dắt tay nhau đi chơi, một đám cô nương xinh đẹp ném khăn ném hoa vào thám hoa lang thì một bà chủ quán rượu như nàng đi bộ trên đường cùng người khác một lát thật sự chẳng phải sợ bị người ta nói gì, nhưng mà…

Thẩm Thiều Quang không vòng vo nữa, chân thành nói đạo lý với hắn: “Chúng ta không môn đăng hộ đối, khó có thể được hạnh phúc. Cớ gì lang quân cứ phải cố chấp?”

“Cô nương là con cháu Thẩm thị Lạc Hạ, mỗ là con cháu Lâm thị Hà Đông; mỗ dù bất tài cũng đỗ đạt làm quan, cô nương…” Lâm Yến liếc mắt nhìn Thẩm Thiều Quang, liếm môi dưới, mỉm cười nói: “Lại càng khá hơn. Theo như Yến thấy, chúng ta vừa môn đăng hộ đối, lại tài mạo tương xứng.”

Thẩm Thiều Quang: “!!!”

Nhìn đôi mắt hạnh của nàng trợn tròn lên và đôi môi khẽ mím lại, Lâm Yến mỉm cười.

Một lúc lâu sau, Lâm Yến mỉm cười dỗ dành nàng: “Nếu ngươi sợ lời lẽ thế gian thì sau này ta chú ý một chút là được.”

Giọng điệu thế này… Thẩm Thiều Quang nhìn đôi mắt cười cong cong của hắn.

Hai chữ “A Tề” lăn đi lộn lại trong miệng một vòng, cuối cùng cũng không dám nói ra sợ lại chọc giận nàng, Lâm Yến thấp giọng nói: “Chớ nên tức giận, lại uổng mất ánh trăng tốt như thế này.”

Ngẩn ra một lúc nữa, Thẩm Thiều Quang híp mắt, cười hỏi như thể chưa có gì xảy ra: “Nhắc tới ánh trăng, sao người ta lại cảm thấy trên đó có một con cóc to? Là bởi vì trên đó có bóng người sao?”

Lâm Yến: “…”

Lại nhớ tới chuyện Ngưu Lang Chức Nữ nàng kể đêm Thất Tịch, Lâm Yến nở nụ cười bất đắc dĩ.

Nói xong một câu phá hỏng bầu không khí tốt đẹp, Thẩm Thiều Quang thong dong ngẩng đầu lên nhìn trăng, lại nhìn nhà cửa, cây cối, đường xá chìm trong ánh trăng – và cả chàng trai tuấn tú kia, đúng vậy, ánh trăng đêm nay thật không tệ*…

* Natsume Sōseki dịch “Anh yêu em” thành “Ánh trăng đêm nay thật đẹp”. [tác giả] Natsume Sōseki là một nhà văn cận-hiện đại lớn của Nhật Bản.

 

 

Đăng trong Tiệm cơm nhỏ thành Trường An - Bánh Anh Đào

Tiệm cơm – Chương 69

Chương 69: Tin đồn bắt đầu lan truyền

Dương Cạnh cười nói với Thiệu Kiệt: “Chính là quán rượu này!”

Thiệu Kiệt bật cười: “Chỗ này?”

Dương Cạnh nhướng mày: “Làm sao? Chê quán rượu nhỏ à? Đồ ăn chỗ này đến cả Lý tướng cũng phải khen.”

Thiệu Kiệt cười đáp: “Sao dám chê chứ? Dạo này bánh hoa của tiệm nhà ta bán càng ngày càng đắt khách chính là nhờ cô nương Thẩm Ký này đấy.”

Dương Cạnh cũng cười: “Cái này thì ta tin, bánh hoa của Thẩm Ký cũng rất ngon.” Giọng nói còn có vẻ tự hào.

Thiệu Kiệt cười rộ lên, tên Trục Chi này vẫn cứ ngờ nghệch thế, may mà Lý tướng là người đức cao khoan dung độ lượng, chứ không thì e là tiền đồ còn trắc trở. Thiệu Kiệt lại cảm khái, thì ra quán rượu mà hắn kể là đề thơ lên vừa khéo được Lý tướng cải trang đi uống rượu nhìn thấy rồi được mời vào phủ tể tướng chính là quán rượu Thẩm Ký này. Nói vậy thì Thẩm Ký có thể coi như chỗ đất lành của cả hai ta.

Bây giờ “thơ đề tường” đã đổi thành bài “Vịnh cá sốt giấm” do một người tên là Chu Chi viết, Dương Cạnh bình phẩm một phen, Thiệu Kiệt thì chỉ đứng nghe.

Phía bên kia bức tường đề thơ, ở chỗ bóng râm dưới hàng hiên của quán rượu bày mấy cái ghế dài, có ba bốn người đang phe phẩy cây quạt, một người đang thưởng trà, một người đang đọc sách, hai người khác thì đang đánh cờ. Thế này là? Thiệu Kiệt hơi ngạc nhiên.

Hai người Thiệu, Dương vừa bước vào đã nhìn thấy cảnh buôn bán sầm uất của quán rượu nhỏ, không có bàn ăn nào trống, có người đang uống một mình, có người thì đối ẩm, còn có nhóm người ăn uống linh đình, Thẩm cô nương và người tỳ nữ của mình đều đang bận.

Thẩm Thiều Quang ngước đầu lên: “Thiệu lang quân, Dương lang quân…” Hai vị này, ông chủ nhỏ của tiệm bánh hoa và một sĩ tử thích làm thơ hóa ra lại là bằng hữu?

Hai người đều cười chào hỏi với Thẩm Thiều Quang: “Cô nương.”

Hai người này mặc dù một người đã từng cho nàng trăm lạng bạc ròng, người còn lại đã từng kiêm chức trưởng bộ phận sáng tạo quảng cáo cho quán nhưng Thẩm Thiều Quang cũng chỉ có thể cười xin lỗi họ: “Sợ là phải phiền hai vị lang quân chờ một lát rồi.”

Dương Cạnh đã quen cửa quen nẻo đi lấy thẻ chờ của quán: “Không sao, chờ một lát là được.”

Thẩm Thiều Quang bưng cho hai người hai bát bơ sữa ướp lạnh: “Trên ghế bên ngoài quán có cây quạt, có truyền kỳ do tiệm sách ở Đông Thị mới ra, ở dưới hàng hiên có bóng râm cũng khá mát, các lang quân ngồi nghỉ một lát.”

Thiệu Kiệt thế mới biết trên ghế bên ngoài quán là chỗ ngồi chờ, lần trước tới hình như vẫn còn chưa có mấy cái ghế này đâu, xem ra Thẩm Ký làm ăn càng ngày càng phát đạt.

Thẩm Thiều Quang cũng không biết tại sao trời nóng bức mà việc làm ăn lại càng lúc càng khá – chẳng lẽ là trời nóng, không có khẩu vị nên muốn tới tiệm cơm quán rượu ăn chút gì đó đậm đà hơn?

Chờ được một lúc thì cuối cùng Thiệu Kiệt và Dương Cạnh cũng có chỗ ngồi. Dương Cạnh tự nhận là khách quen, tính tình lại hào sảng kiểu “thiên kim tán tận hoàn phục lai*”, gọi không ít món ăn chiêu bài trong quán để thiết đãi bằng hữu, còn gọi thêm một bầu rượu hổ phách, Thiệu Kiệt cũng không phải người hay để ý mấy cái lặt vặt, mặc cho hắn làm.

* Trích “Tương tiến tửu” (Xin mời rượu) của Lý Bạch, nghĩa là: Ngàn vàng tiêu sạch hết rồi sẽ có trở lại.

Thiệu Kiệt nếm một đũa thịt mã não, không đã nghiền, nhét cả miếng to vào trong miệng, ăn xong cười nói: “Chà, thơm ngậy lại mềm mịn! Thoáng cái là có khẩu vị ngay. Còn chưa thấy ai có thể làm món thịt lợn vừa ngon miệng vừa đẹp mắt như vậy. Thịt này gọi là gì?”

Dương Cạnh nói tên cho hắn nghe.

“Cái tên thịt mã não này đặt rất khéo, đúng là có nét giống mã não thật.” Thiệu Kiệt khen.

Dương Cạnh cười nói: “Còn cần ngươi phải nói sao, đây cũng là cái đặc sắc của chỗ này, nhiều tên món ăn vừa lịch sự tao nhã lại vừa thú vị, chỉ nghe tên món thôi đã khiến người ta sinh ra bao nhiêu liên tưởng.”

Xong lại chỉ món canh đậu phụ bên cạnh, nói: “Món này gọi là canh hoa lau, bên trong có cho thịt gà và tôm nõn, từng sợi từng sợi mềm mịn, có phải rất giống bông hoa lau trắng muốt không? Rồi còn một món đậu phụ khác thì lại trong như gương, gọi là canh nhuyễn ngọc, cũng rất giống hình ảnh thực.”

Thiệu Kiệt gật đầu, cảm thấy bánh hoa nhà mình cũng nên đổi lại tên hết, bánh mứt táo hoa quế… quá tả thực.

Hai người tới muộn, ăn xong cũng đã muộn, dần dần đã qua đoạn thời gian cao điểm đông khách, Thẩm Thiều Quang thở phào một cái, uống chút trà xanh rồi đi tới bên này chào hỏi.

Hai người vốn đang nói chút chuyện về tình hình gần đây, thấy Thẩm Thiều Quang đi tới thì Thiệu Kiệt cười nói: “Mỗi lần tới Thẩm Ký mỗ lại có thêm chút ý tưởng, chỉ tiếc không thể cũng ở trong phường như Trục Chi để mà thường xuyên tới.”

Thẩm Thiều Quang cười nói đùa: “Lời này của Thiệu lang quân chớ để đầu bếp Vu Tam của bọn ta nghe thấy, nếu không há chẳng phải đau lòng lắm sao? Quán hấp dẫn lang quân tới đây lại không phải nhờ cơm nước…”

Thiệu Kiệt cười: “Cơm nước cũng rất tốt, nhưng cái cách buôn bán của cô nương còn tốt hơn.”

Thẩm Thiều Quang cười nói: “Nhưng nói cho cùng thì cái trước mới là thực, cái sau chỉ là hư.”

Mặc dù cũng không tính là thân quen nhưng cũng biết cô nương này không phải kiểu “nề nếp”, Thiệu Kiệt cười hỏi: “Lời này nghĩa làm sao?”

“Nếu chỉ theo đuổi cái hư thì chỉ được cái danh nhất thời, suy cho cùng cũng khó có thể kéo dài; nếu chỉ theo đuổi cái thực thì lại quá thật thà, sợ rằng khó nổi lên được.”

Thiệu Kiệt vỗ tay tán thưởng: “Cô nương nói rất hay!”

Xưởng bánh nhà mình có thể lớn mạnh, truyền thừa mấy đời chẳng lẽ chỉ nhờ vào tay nghề hay sao? Đúng là tay nghề tốt thật, nhưng cũng có phần nhờ vào việc năm đó ông tổ được nhập quan làm viên ngoại, dù rằng cái chức viên ngoại này chỉ là hư, nhưng mà cũng là chuyện hiếm thấy, được đồn thổi đi khắp nơi, ai mà không muốn nếm thử một chút bánh hoa quan viên ngoại? Mà những xưởng cùng thời đó chỉ lo thành thật làm bánh và cả những người chỉ lo thành thật làm bánh mà còn không thể mở xưởng thì đều đã bị thời gian vùi lấp từ lâu.

Ngay cả Dương Cạnh cũng nói: “Lời cô nương nói khá hợp với đạo lý “ngôn chi bất văn, hành chi bất viễn*”, lại có câu “văn dĩ quán đạo**” của Hàn công đương thời…”

* Nghĩa là lời nói không văn vẻ thì không thể phổ biến.

** Nghĩa là dùng lời văn vẻ để nói về những thứ gần gũi bình thường.

Thấy bằng hữu có vẻ sắp thao thao bất tuyệt, Thiệu Kiệt làm ra vẻ đau khổ, vuốt mặt một cái: “Trục Chi, Trục Chi, ngươi tha cho ta đi.”

Dương Cạnh bật cười, đành phải ngừng lời.

Thẩm Thiều Quang nhếch môi cười, đây đúng là một đôi học tra và học bá phiên bản hiện thực.

Thiệu Kiệt lại nghiêm túc nói: “Nói thật, với đồ ăn của bổn quán và tài năng của cô nương thì một mặt tiền nho nhỏ thế này không đủ để phát huy, cô nương có từng nghĩ tới chuyện mở một quán rượu lớn ở Đông Thị Tây Thị chưa?”

Ai mà không muốn tới CBD mở khách sạn sang trọng chứ? Nhưng mà… Thẩm Thiều Quang cười nói: “Nhi dù vừa tham vừa đói, nhưng cũng chỉ có thể ăn từng chút mà thôi.”

* CBD là viết tắt của Central Business District, chỉ trung tâm thương mại – kinh tế sầm uất của các thành phố lớn.

Thiệu Kiệt hiểu được ý của nàng, cũng không phải là không có cái chí này, chỉ là hiện tại còn chưa có điều kiện mà thôi. Cô nương vừa thông minh vừa cẩn thận, nói chưa chừng ngày nào đó thật sự có thể trở thành phú thương hàng đầu thành Trường An này.

Ba người hàn huyên với nhau mấy câu, thấy bọn hắn cũng đã uống kha khá, Thẩm Thiều Quang hỏi: “Ta lấy cho hai vị lang quân một bát xôi bát bảo được không?”

Đương nhiên hai người không phản đối.

Xôi bát bảo là một loại đồ ăn ngọt cuối bữa thường gặp ở thời hiện đại. Lúc Thẩm Thiều Quang còn bé đi ăn cỗ, dù đã ăn no thì cũng phải ăn thêm vài miếng xôi bát bảo.

Chưng xôi bát bảo không phức tạp lắm, đáy bát quét một lớp dầu, rải các loại hạt sen đã nấu chín, quả bạch quả và long nhãn, nho khô và hạt khô các loại ở đáy chén, sau đó cho gạo nếp đã nấu chín tám phần vào – nấu trước rồi mới chưng là để cho hạt gạo nếp mềm dẻo, phía trên gạo bỏ dầu chiên từ mỡ lợn và nhân đậu trộn đường, phía trên nhân đậu lại cho thêm một lớp gạo nếp, cứ như vậy cho đến khi đầy bát thì đặt lên vỉ chưng.

Sau khi chưng xong thì cho vào ngăn tủ giữ ấm, lúc nào muốn ăn thì lấy ra úp ngược lên đĩa lớn, lại tưới thêm một tầng bơ sữa – thời hiện đại thì phần lớn mọi người đều tưới nước đường phèn, cũng có người tưới nước ép việt quất dâu tây các loại, nói chung là vừa thơm vừa ngọt*.

* Tham khảo “xôi bát bảo” của Lương Thực Thu và công thức trên mạng. [tác giả]

Thẩm Thiều Quang bưng xôi bát bảo lên, cầm thìa và bát phân cho hai người, hai người Thiệu, Dương đều nói cứ để mình tự làm, bảo nàng chớ khách khí.

Thẩm Thiều Quang đang định rời đi thì lại nghe thấy mấy người đã có men say ngồi cạnh đó đang bàn tán chuyện thời tiết và tình hình chính trị đương thời.

“Năm ngoái trời hạn, lộ cả mấy tảng đá trong kênh đào quanh thành, nghe nói thánh thượng đi Hoàn Khâu tế trời cầu mưa, trời ưng thuận nên mới cho mưa xuống, ai ngờ năm nay không thiếu mưa, nhưng mà trời lại quá nóng, ta thấy ấy à…” Người nói chuyện bĩu môi lắc đầu.

“Tiết trời báo trước điềm lạ, không biết sau này thế nào.” Một người khác thở dài buồn bã.

Một người khác nói: “Các ngươi không nghe nói gì sao? Phía tây bắc thành đến cả cóc nhái cũng chẳng kêu nữa rồi, trên đường có bài đồng dao, “Cóc nhái chán, thiên hạ phản”…”

“Nghe nói những năm cuối của tiên đế…”

Dương Cạnh muốn đứng lên thì bị Thiệu Kiệt kéo lại, Thẩm Thiều Quang đã nhanh chân đi tới, cười hỏi: “Bổn quán có món xôi bát bảo rất ngon, các vị có muốn nếm thử không?”

Người thở dài buồn bã kia cười đáp: “Phải rồi, nên ăn chút cơm. Hôm nay bọn ta làm phiền bát lang, tháng sau mỗ từ Biện Châu về sẽ lại bày tiệc đáp lễ ở đây.” Lại híp đôi mắt đã say lờ đờ, cười nói với Thẩm Thiều Quang: “Cô nương làm cơm canh rất ngon.”

Thẩm Thiều Quang cười nói cảm ơn.

Quả nhiên mấy người này gọi một bát xôi bát bảo, lưỡi đã uống cho mất vị rồi, nào còn ăn được gì nữa, chỉ ăn qua loa một chút rồi lảo đảo ra về.

Thẩm Thiều Quang đứng cạnh cửa tiễn mấy người này về, quay lại thì nghe Dương Cạnh nói: “Thánh thượng vâng mệnh trời, liên quan gì tới cóc nhái đâu? Chẳng lẽ nào lại có cái lý ấy! Nếu ngươi không ngăn thì ta đã lý luận một trận cho ra trò với bọn hắn rồi.”

Thiệu Kiệt nói: “Ngươi lý luận gì với cái đám say khướt ấy? Cho dù ngươi cãi được thắng thì bọn họ muốn nói thế nào vẫn cứ nói tiếp thế thôi, đầu óc và kiến thức đâu phải ai cũng có.”

Thẩm Thiều Quang phì cười, Thiệu lang quân này châm chọc người ta cũng gay gắt lắm chứ.

Thấy Thẩm Thiều Quang cười, Thiệu Kiệt nghiêm mặt nói: “Nghe nói năm Khai Nguyên thời tiết còn hơn cả thế này, đồng cỏ khô hạn, đất đai nứt nẻ, nhưng thế thì sao chứ? Sau vẫn cứ thái bình thịnh thế đấy thôi.” Chẳng dễ gì mà vị lang quân không thích đọc sách này lại đưa ra được một dẫn chứng lịch sử như thế.

Thẩm Thiều Quang gật đầu, nói ra suy đoán của mình: “Chỉ sợ phía sau lời đồn này có bàn tay người thao túng thôi. Các ngươi ngẫm lại xem, bụng cá tàng thư*, trù hoạch khởi nghĩa, lịch sử đâu thiếu mấy chuyện thế này…” Thẩm Thiều Quang không ngại suy đoán có người tạo ra lời đồn với mục đích xấu.

* Điển tích “bụng cá tàng thư, cáo hoang gào đêm”: Khi Trần Thắng bắt đầu tiến hành khởi nghĩa phản Tần đã lợi dụng sức mạnh của quỷ thần để tạo lòng tin phục của binh sĩ bằng cách dùng bút đỏ viết lên lụa ba chữ “Trần Thắng vương” rồi cho vào bụng một con cá to, lại cho người giả bộ mua con cá này từ chợ về. Mọi người phát hiện sách lụa trong bụng cá thì bắt đầu tin phục Trần Thắng. Đêm ấy, Trần Thắng lại lệnh cho Ngô Quảng âm thầm chạy tới từ đường cạnh đó châm lửa vào lồng trúc, nhìn từ xa giống như ma trơi. Sau đó Ngô Quảng bắt chước tiếng cáo tru, hô to “Trương Sở hưng, Trần Thắng vương” (Trương Sở là chính quyền cách mạng do Trần Thắng lãnh đạo), mọi người đều cho rằng Trần Thắng làm vương là ý của trời, cho nên rất kính phục hắn.

Dương Cạnh và Thiệu Kiệt đều biến sắc, suy tư một lát, Dương Cạnh đứng lên, trịnh trọng vái Thẩm Thiều Quang một cái: “Cô nương thấy mầm biết cây*, bọn ta khó mà đuổi kịp. Mỗ nhất định sẽ bẩm báo với Lý tướng công, cẩn thận điều tra chuyện này.”

* Nguyên văn là “kiến vi trí trứ”, nghĩa là nhìn sự vật khi vừa xuất hiện đã biết được bản chất và xu thế phát triển của nó.

Thẩm Thiều Quang vội vàng né tránh, lại khách khí đáp lễ.

Xảy ra chuyện như vậy, hai người cũng không uống trà nữa, tính tiền rồi ra về, Thẩm Thiều Quang tiễn bọn họ ra ngoài.

Trước cửa, Thiệu Kiệt cười nói với Thẩm Thiều Quang: “Còn chưa đa tạ cô nương, từ sau khi học được cách bán bánh hoa của cô nương, chuyện buôn bán trong tiệm đã khá hơn rất nhiều. Lúc các huynh trưởng quản tiệm bánh còn chưa từng đạt được thành tựu như vậy, cho nên mỗ được mát mặt một phen trước ông nội và các thúc bá, huynh đệ.”

Thẩm Thiều Quang cười chúc mừng, sau đó lại nghiêm túc nói: “Cái này chủ yếu vẫn là nhờ lang quân có ánh mắt tốt, “thiên lý mã thường có, Bá Lạc lại mấy người” mà.”

Thiệu Kiệt cười ha ha, trước giờ chưa bao giờ gặp một cô nương cởi mở lại tinh quái như vậy: “Rất phải, rất phải.”

Ngay cả Dương Cạnh đang buồn bã chuyện nước chuyện dân cũng bị hai người chọc cho bật cười.

Lâm Yến giải tán nha môn, lại cùng Bạch phủ doãn và Triệu tham quân phụ trách quản lý đời sống dân chúng bàn bạc về chuyện này một hồi, sau đó ngồi xe trở về, đi ngang qua trước cửa Thẩm Ký thì theo thói quen nhìn sang, vừa liếc mắt đã thấy Thẩm cô nương đang híp mắt cười rất vui vẻ, hai vị bên cạnh có một người là lang quân của tiệm bánh ở Đông Thị hôm đó đã từng gặp, hắn cũng đang cười vui vẻ.

Lâm Yến hơi nhíu mày, cũng hơi mỉm cười, không biết bọn họ đang nói chuyện gì mà vui vẻ như vậy?

 

 

Đăng trong Tiệm cơm nhỏ thành Trường An - Bánh Anh Đào

Tiệm cơm – Chương 68

Chương 68: Chủ nào mèo nấy

Lần này Sở Lệ tới Trường An, thứ nhất là để tiễn đưa quan tài của Khương Trù lão tiên sinh trong thư viện về quê cũ ở kinh thành để an táng, lão tiên sinh đức cao vọng trọng lại không có con trai nối dõi, quan hệ với Sở Lệ nửa là thầy mà nửa là bạn, về tình về lý thì đều phải đi chuyến này; thứ nữa cũng là để thăm Lý Duyệt và một vài người bằng hữu cũ. Từ sau chuyện Ngô Vương, mọi người hoặc là chìm nổi trên quan trường, hoặc là trôi giạt giang hồ, mỗi người có nỗi khó khăn của mình, mặc dù thỉnh thoảng có thư tín qua lại nhưng vẫn chưa từng có dịp tương phùng. Nhoáng cái đã mười năm, lần sau tụ họp chẳng biết là đến bao giờ.

Có thể gặp lại A Tề đúng là một niềm vui ngoài ý muốn.

Lúc đầu Sở Lệ rất mong A Tề có thể đi cùng mình, nhận nàng làm nghĩa nữ, nuôi dưỡng nàng chốn khuê phòng, chọn một vị hôn phu cả nhân phẩm lẫn tướng mạo đều xuất sắc, nhìn nàng yên ổn sinh hoạt – sau này hắn có xuống hoàng tuyền thì cũng có mặt mũi mà gặp Thẩm Ngũ.

Nhưng mấy lần tới quán rượu Thẩm Ký, phát hiện là nàng thật lòng thích cuộc sống khói lửa chốn phố phường này, còn sống rất thoải mái, một cô nương nho nhỏ mà lại rất có chủ kiến, cho nên hắn cũng không miễn cưỡng nàng. Lại nghĩ tới vị Lâm thiếu doãn “dụng tâm kín đáo” trong phường, Sở Lệ suy xét nhiều lần, đành phải thở dài: “A thúc luôn sẵn sàng hoan nghênh ngươi tới, A Tề.”

Vị Lâm thiếu doãn “dụng tâm kín đáo” này về sau cũng từng tới bái phỏng hai lần, nhìn dáng vẻ rất quân tử của hắn, lại nghĩ tới dáng vẻ mỉm cười rất lanh lợi của A Tề, chẳng hiểu sao Sở Lệ lại sinh ra chút cảm thông với hắn, nhưng vẫn cứ nghiêm mặt cảnh cáo: “Thiếu doãn là người quân tử, mỗ yên tâm.”

Lâm Yến chắp tay hành lễ: “Vâng.”

Người không quân tử lắm thì lại là Thẩm Thiều Quang. Tiễn Sở a thúc đi rồi, Thẩm Thiều Quang lại trở về với nhịp sống cũ, mỗi ngày bày đôi trò vui chơi giải trí, thu tiền tính tiền, nguyền rủa cái mùa hè nóng bức kéo dài dằng dặc này, và cả… ngắm trộm Lâm mỹ nhân.

Bởi vì trời nóng nên Lâm mỹ nhân không thường mặc áo dài cổ tròn nghiêm chỉnh như thường lệ mà lại thường mặc áo giao lĩnh hoặc là y phục kiểu mới của người Hồ.

Y phục kiểu Hồ thì cũng không nói làm gì, chẳng qua là hiện rõ vóc người hơn chút, nhưng mà hắn mặc áo giao lĩnh thì cực kỳ đẹp mắt.

Áo mỏng với tay áo rộng, kiểu dáng thời Ngụy Tấn nhưng kéo dài hơn, tiêu sái phóng khoáng, lúc đi đường có vạt áo tạo cảm giác như gió thổi, nếu ngồi xếp bằng trước cửa sổ rũ mày xuống thì thật giống như một bức tranh danh sĩ đồ sống động.

* Danh sĩ chỉ những người rất có danh vọng nhưng không làm quan.

Thẩm Thiều Quang là một người chú ý “chi tiết”, mấy lần liếc nhìn nốt ruồi đỏ cạnh cổ hắn, vừa nhỏ vừa đỏ, giống với nốt chu sa, trông rất đáng yêu, nếu mà cái này ở trên người tiểu mỹ nhân nào đó ở trong cung thì nói chưa chừng lại tạo nên một câu chuyện đặc sắc. Mà từ nốt ruồi đỏ kia đi xuống, phong cảnh bên trong áo giao lĩnh…

Lâm Yến vươn tay cầm bánh đậu xanh, lộ ra sợi dây trường mệnh ngũ sắc trên cổ tay. Thẩm Thiều Quang vội vàng dời mắt đi cứ như bị thứ màu sắc rực rỡ đó làm bỏng mắt.

Lâm Yến lại mỉm cười ngước mắt nhìn nàng.

68 củ ấu

Thẩm Thiều Quang cười rất đứng đắn: “Lang quân nếm thử món bánh củ ấu này xem, được làm từ củ ấu hái đầu mùa năm nay, bọc mứt táo, hương vị rất ngọt ngào.”

Lâm Yến chỉ cười nhìn nàng, không lên tiếng.

Thẩm Thiều Quang khẽ ho một tiếng, duy trì nụ cười nghiêm chỉnh kia: “Lang quân chậm rãi thưởng thức.” Sau đó xoay người đi trở lại sau quầy.

A Viên ở phòng bếp nhỏ giọng hỏi Vu Tam: “Có phải cô nương nhà chúng ta đã nhìn trúng Lâm thiếu doãn không?”

Vu Tam: “…”

A Viên nhỏ giọng nói: “Ánh mắt của cô nương thật là tốt, Lâm thiếu doãn là lang quân đẹp mắt nhất trong phường chúng ta.”

Vu Tam nhịn không được: “Mắt ngươi nhìn kiểu gì thế hả? Rõ ràng là Lâm thiếu doãn kia phải lòng cô nương nhà chúng ta.”

A Xương buông mớ đồ ăn đã chọn xong một nửa xuống, cũng thò đầu tới.

A Viên lại nghĩ ngợi một lúc: “Vậy thì là ánh mắt của Lâm thiếu doãn rất tốt, cô nương nhà chúng ta thật sự là…” Còn đang nghĩ xem nên nói thế nào thì A Xương đã tiếp lời: “Cô nương đẹp nhất trong phường chúng ta.”

A Viên gật mạnh đầu.

Vu Tam nhịn không nổi nữa, đẩy hai người kia ra: “Đi làm việc đi!”

A Xương nhìn ra bên ngoài qua ô cửa sổ mở, báo cho A Viên: “Mèo tới rồi!”

A Viên bưng cơm trộn thịt gà đã nấu xong đi ra ngoài, ba, bốn con mèo hoang thấy chậu đồ ăn quen thuộc thì đều vây lại.

Thẩm Thiều Quang cũng đi ra xem.

A Viên khá là khó hiểu trước hành vi cho mèo hoang ăn của cô nương: “Con màu đen này hôm qua còn ăn vụng thịt của chúng ta đấy, lại còn chẳng bắt được chuột cho chúng ta.”

Thẩm Thiều Quang cười nói: “Cứ cho ăn đi, chúng ta cũng đâu thiếu thốn gì chút đồ ăn này.”

Bốn con mèo ăn xong thì nghênh ngang rời đi, Thẩm Thiều Quang muốn ôm một cái cũng không ôm được, không khỏi cười mắng: “Cái đồ không có lương tâm.”

Phía sau vang lên tiếng ho nhẹ, Thẩm Thiều Quang quay đầu, là Lâm thiếu doãn. Không biết có phải vì nóng hay không mà hình như bên tai hắn hơi đỏ lên.

Thẩm Thiều Quang khách khí mỉm cười nói: “Lâm lang quân đi thong thả.”

Lâm thiếu doãn gật đầu, xoay người đi. Nhìn theo bóng lưng hắn, Thẩm Thiều Quang hơi oán giận, dáng dấp tốt như vậy làm gì chứ? Làm ta có cảm giác cứ như thể bỏ nhầm tấm vé xổ số trúng năm triệu vào máy giặt rồi giặt hỏng ấy. Ài, hữu duyên vô phận, có than thở cũng không được gì!

Nhưng không ngờ rằng mấy hôm sau Lâm thiếu doãn lại bế một con mèo tới.

Thẩm Thiều Quang nhìn con mèo nhỏ đáng yêu trong lòng hắn, Lâm thiếu doãn thích mèo sao? Đang định ghen tị với cái người có mèo ôm này thì lại nghe hắn nói: “Đây là của bằng hữu tặng cho, nhưng bà nội có mèo ở cạnh sẽ hắt xì liên tục nên mỗ muốn hỏi một chút xem cô nương có muốn nuôi không?”

Thẩm Thiều Quang vẫn còn giữ được lý trí: “Hôm trước lang quân cũng nhìn thấy rồi đấy, nhi nuôi bốn con mèo cơ, con nào cũng to lớn dũng mãnh.” Lại nhìn con mèo bên trong khuỷu tay Lâm thiếu doãn: “Mèo của lang quân được nuông chiều, sợ là không chịu được cuộc sống cẩu thả của bọn ta.”

Lâm Yến mỉm cười, đặt mèo xuống đất, đi đến chỗ ngồi của mình.

Thẩm Thiều Quang không khỏi ngắm nghía con mèo kia, con mèo này cũng thật là đẹp mắt, cả người đều trắng muốt, chỉ có mỗi đỉnh đầu màu đen, ngay chính giữa đỉnh đầu có một nhúm lông màu hổ phách trông cứ như cài trâm, tai lại là màu trắng, thế mà Thẩm Thiều Quang lại nhìn ra chút dáng vẻ ngọc thụ lâm phong trên người con mèo này.

Mặc dù con mèo này có “độ cao so với mực nước biển” khá thấp nhưng lại rất có phong thái bễ nghễ, lạnh lùng liếc nhìn Thẩm Thiều Quang một cái, lại nhìn xung quanh một lát, sau đó thong dong đi tới ngồi lên một chiếc bồ đoàn.

Nhìn dáng vẻ kiêu ngạo rất mê hoặc kia, Thẩm Thiều Quang gõ ngón trỏ lên quầy hàng, vô cùng do dự.

Ngay cả người luôn chẳng ưa mèo như A Viên mà cũng thích mê con mèo này, chủ động hỏi Thẩm Thiều Quang: “Cô nương, cho nó một ít thịt gà nhé?”

Lâm Yến liếc mắt nhìn bóng dáng đang rối rắm kia, mặt mày cong lên.

Thôi được rồi, chẳng qua chỉ là một con mèo mà thôi, cũng không phải thứ quý giá gì, ngay cả bức bình phong hồ sen cũng đã nhận rồi, thêm con mèo này cũng chẳng đáng là gì. Thẩm Thiều Quang đi tới nói với Lâm Yến: “Vậy thì xin đa tạ Lâm thiếu doãn.” Thẩm Thiều Quang dường như nghe được tiếng tiết tháo của mình rơi xuống đất.

Thẩm Thiều Quang lại hỏi về thói quen của con mèo này, Lâm Yến nói: “Chủ cũ của nó nói con mèo này rất an tĩnh.”

Thẩm Thiều Quang nhìn Lâm Yến, thế cái khác thì sao?

Lâm Yến chợt tìm lại cảm giác lúc còn bé ham chơi không ôn bài bị tiên sinh gọi đứng dậy, ôn hòa mỉm cười: “Cái khác thì cũng không thấy nói, nếu có chuyện gì thì cứ nói cho ta biết, ta cho người đi hỏi một chút là được.”

Thẩm Thiều Quang đột nhiên nhớ tới bí quyết “mượn sách” trong “Vây thành”, nam nữ qua lại với nhau không thể tặng sách, phải lấy cái danh là “mượn”, một người cho mượn một người trả, đi đi lại lại, thế chẳng phải là sẽ thân sao? Nuôi con mèo này lại còn phiền phức hơn mượn sách nhiều…

Thẩm Thiều Quang nhìn khuôn mặt ôn hòa của Lâm thiếu doãn, Lâm Yến nhướng mày, Thẩm Thiều Quang cảm thấy mình đã nghĩ nhiều rồi, cười nói: “Nếu thật sự nuôi không tốt thì khó tránh khỏi phải phiền Lâm lang quân rồi.”

Lâm Yến cười gật đầu.

Thẩm Thiều Quang đột nhiên nhớ ra: “Con mèo này gọi là gì?”

“Hai mắt sáng chói, nên gọi là “Minh Nô”.”

Thẩm Thiều Quang gật đầu, tên rất êm tai, thuận miệng cười hỏi: “Lang quân đặt sao?”

Lâm Yến liếm môi dưới: “Tên này không… đụng chạm gì chứ?”

Thẩm Thiều Quang dừng một chút, nhìn hắn như cười như không, Lâm thiếu doãn rũ mắt xuống, mượn chén trà che khuất khuôn mặt hơi ửng lên của mình.

Thẩm Thiều Quang lại nghĩ tới cái khác, cười hỏi: “Nói đến đụng chạm, còn chưa biết tên húy của thiếu doãn.”

“Mỗ tên một chữ Yến, tự An Nhiên.”

Trong “Tiểu nhĩ nhã” đã nói “yến, cũng tức là minh”. Minh Nô… Tiểu nô của Lâm Yến? Hay chữ “nô” này chỉ đơn thuần là một tiếng đệm?

* “Tiểu nhĩ nhã” là cuốn từ điển giải thích nghĩa các từ Hán trong sách cổ.

Dưới cái nhìn chăm chú của Thẩm Thiều Quang, Lâm thiếu doãn vẫn thản nhiên uống trà. Thẩm Thiều Quang lộ rõ ánh mắt phẫn nộ, đúng là thi đậu tiến sĩ, tuổi trẻ đã làm quan to có khác, giở trò lưu manh thì người bình thường không thể nào sánh được.

Giống như chơi cờ vây, Thẩm Thiều Quang vừa lui thì Lâm Yến liền tiến vào, hắn ngước mắt mỉm cười nhìn nàng, mang theo chút mong đợi lại như có chút ngượng ngùng.

Thẩm Thiều Quang hơi khựng lại, chẳng lẽ hắn đang chờ nàng cũng tự giới thiệu?

Lâm Yến không trêu chọc nàng nữa, rũ mắt khẽ cười.

Một lát sau, Thẩm Thiều Quang cũng nở nụ cười bất đắc dĩ, sao có thể ám muội thành thế này chứ?

“Ta đi xem cơm canh của lang quân thế nào rồi.” Thẩm Thiều Quang đứng dậy.

“Đơn giản chút là được rồi.”

Thẩm Thiều Quang gật đầu, quay trở lại bếp.

Vừa lọc xương cá, Thẩm Thiều Quang vừa nghĩ tới chuyện giữa mình và Lâm thiếu doãn. Rốt cuộc là sắc đẹp của Lâm thiếu doãn quá mê hoặc, hay là vì ý chí của ta không kiên định? Biết rõ là không có kết quả rồi… Thẩm Thiều Quang vô cùng nghi ngờ ranh giới đạo đức và ý chí của bản thân.

Lấy thịt cá đã lọc sạch xương trộn thêm chút dầu vừng, muối, nước gừng, một ít bột hồ tiêu rồi trộn lên ướp, lại cắt măng muối và củ kiệu thành hạt lựu, cắt thêm chút hành lá, cháo nấu bằng canh cá đã chín nhừ, Thẩm Thiều Quang bỏ thịt cá, măng thái hạt lựu, củ kiệu thái hạt lựu và hành cắt nhỏ vào, quấy đều, chỉ chờ dậy mùi, thêm chút muối cho đậm vị là được.

Nhìn nồi cháo đang ninh nhỏ lửa, Thẩm Thiều Quang đột nhiên tỉnh ngộ, người ta đã nói trị quốc như nấu món ngon, vị thiếu doãn phủ Kinh Triệu này mới là cao thủ nêm nếm… Đây là muốn coi ta thành thịt cá để hầm đây mà.

Thẩm Thiều Quang hơi không cam tâm, nhưng nghĩ tới nụ cười như gió xuân của hắn, nghĩ tới dáng vẻ nghiêm túc của hắn khi nói “Con cháu Nho gia thì lại cho rằng “Chí ở đạo, sống ở đức, dựa vào nhân”, tận tâm tận lực mà theo đuổi là được”, còn cả âm cuối du dương trong câu “Biết đâu lại rất “có thể” thì sao”, Thẩm Thiều Quang lại cảm thấy mình thế này cũng là dễ hiểu.

Vu Tam quay đầu, nhíu mày hỏi: “Cháo còn chưa xong sao?”

“Xong rồi, xong rồi.” Thẩm Thiều Quang cho muối vào, bưng nồi cháo xuống để cho nguội bớt – thực ra đây là cháo bữa chiều của bốn người trong quán, san ra một bát cho Lâm thiếu doãn mà thôi.

Lại tùy ý lấy mấy đĩa rau trộn, Thẩm Thiều Quang thấy có chân gà hầm đã xong thì nổi lòng trả thù, gắp hai cái đặt vào đĩa nhỏ, đặt hết mấy đĩa lên khay, bưng ra cho Lâm thiếu doãn.

“Lâm lang quân nếm thử món cháo cá của quán bọn ta xem.” Thẩm Thiều Quang cười nói, lại cố ý chỉ vào hai cái chân gà: “Còn cả món này nữa, đây là thức nhắm chiêu bài của quán bọn ta, chần nước sôi xong thì chiên rồi mới mang đi hầm, vừa thơm vừa giòn, ăn với cháo rất ngon.”

Liếc mắt nhìn nụ cười bỡn cợt rồi lại giả vờ đứng đắn của Thẩm cô nương, Lâm Yến uống một hớp cháo, cầm chân gà lên chậm rãi gặm.

Cũng không hề có vẻ chật vật như Thẩm Thiều Quang mong đợi, có những người như thế đấy, dù có mặc quần đùi ngồi ăn thịt nướng vỉa hè thì cũng có thể thong dong tao nhã như đang tản bộ thưởng hoa nơi sân vắng. Thẩm Thiều Quang liếc mắt nhìn nước tương dính trên châu môi của hắn, vô cùng có khả năng tự kiềm chế, nói: “Lâm lang quân chậm rãi thưởng thức.” Sau đó xoay người đi.

Trong bếp, A Viên đang đút ức gà cho con mèo kia, con mèo ăn rất dè dặt, ngồi yên chậm rãi ăn.

A Viên khen: “Đúng là mèo nhà Lâm thiếu doãn có khác, ăn cũng đẹp mắt.”

Vu Tam liếc mắt nhìn con mèo kia, hừ một tiếng bằng giọng mũi.

Thẩm Thiều Quang nhìn con mèo, Minh Nô, Lâm Yến… Thật đúng là chủ nào tớ nấy!

 

 

 

Đăng trong Tiệm cơm nhỏ thành Trường An - Bánh Anh Đào

Tiệm cơm – Chương 67

Chương 67: Sở Lệ thăm Lâm trạch

Tiễn Sở a thúc về rồi, Thẩm Thiều Quang lại lật lại mấy quyển sách Lâm thiếu doãn đưa tới, ký ức cũ trong đầu ùa về, nước mắt rơi lên trang giấy úa vàng rồi nhòe ra.

Có lẽ là vì tiếp nhận cả thân thể và ký ức của nguyên thân, lại thừa nhận số kiếp ở Dịch Đình, Thẩm Thiều Quang vẫn không thể nào tách hẳn mình với A Tề trước kia, có những hôm tờ mờ nửa tỉnh nửa mê, thỉnh thoảng nàng sẽ có cảm giác như Trang Chu mộng hồ điệp, không biết rốt cuộc A Tề con gái của tội thần thời Đại Đường và Thẩm Thiều Quang của thế kỷ hai mươi mốt đâu mới là mình.

* Điển tích Trang Chu mộng hồ điệp: Có lần Trang Chu nằm mộng thấy mình hóa bướm vui vẻ bay lượn, mà không biết mình là Chu nữa, rồi bỗng tỉnh dậy, ngạc nhiên thấy mình là Chu. Không biết phải mình là Chu nằm mộng thấy hóa bướm hay là bướm mộng thấy hóa Chu. Trang Chu với bướm tất có chỗ khác nhau. Cái đó gọi là “vật hoá”.

Thẩm Thiều Quang khẽ khàng thở dài một hơi.

“Cốc! Cốc!”

Thẩm Thiều Quang lau mặt ngẩng đầu lên, là Vu Tam.

“Sao thế?” Thẩm Thiều Quang vô cùng ngạc nhiên, bận rộn suốt cả buổi trưa, sao bây giờ không tranh thủ nghỉ ngơi một chút?

Vu Tam đi tới ngồi xuống đối diện Thẩm Thiều Quang, nhìn rương sách trước mặt nàng, chần chừ một lúc, hỏi: “Ngươi là nữ nhi của cố Thẩm thị lang bộ Lễ?”

Thẩm Thiều Quang gật đầu, nhướng mày nhìn hắn.

“Chủ cũ của ta là Lý Tự, con trai thứ tư của Ngô Vương.”

Thẩm Thiều Quang sửng sốt, không ngờ là còn có gốc gác sâu xa như vậy.

“Hồi mùa đông, lúc Lý tướng công và Lâm thiếu doãn nhắc tới chuyện cũ, lúc đó dường như sắc mặt của ngươi đã khác thường nhưng ta cũng không suy nghĩ nhiều, bây giờ Sở lang quân tới, ngươi gọi là a thúc thì ta mới đoán ra.” Vu Tam giải thích.

Thẩm Thiều Quang gật đầu.

“Tứ lang lớn hơn ngươi một chút, lúc Ngô Vương gặp chuyện hắn còn chưa đầy mười sáu, vốn nên bị đi đày, nghe nói là vì chuyện của Thẩm gia các ngươi, trong triều nghị luận ầm ĩ, cho nên tiên đế mới thả cho một cửa, chỉ giáng hắn và ngũ lang xuống làm dân thường.” Với dáng vẻ mảnh mai của hắn… sợ là không chịu nổi cảnh lưu đày, cho nên Thẩm gia có thể coi như ân nhân cứu mạng của hắn.

“Mặc dù là dân thường nhưng lúc đầu vẫn có người của triều đình giám sát, đương nhiên cũng có bạn cũ của Ngô Vương giúp đỡ, nhưng rồi lâu dần, giám sát lơi lỏng, sau khi đương kim thánh thượng kế vị, bọn ta liền dọn nhà – hắn cũng không muốn bị đám bạn cũ chiếu cố.”

Vu Tam nhớ tới dáng vẻ hắn híp cặp mắt đào hoa xinh đẹp lại cười mỉa “Gặp rồi lại nhắc mấy chuyện cũ trong vương phủ, nói chuyện án oan, lại thúc giục ta cố gắng… Chẳng lẽ ta còn có thể tham gia thi cử sao?” Dáng vẻ kia đã từng khiến hắn thấy thương cảm, nhưng bây giờ lại nghĩ, nếu đổi lại là cô nương thì có lẽ đã chẳng sa sút tinh thần gặp sao hay vậy như tứ lang, nói chưa chừng bây giờ đã mua thuyền to làm nghề vận tải đường thủy rồi cũng nên.

Vu Tam trở lại với suy nghĩ của mình, nói với Thẩm Thiều Quang: “Hắn rất biết ơn Thẩm thị lang.”

Thẩm Thiều Quang cong khóe môi lên cười một cái, biết ơn hay không cũng có gì quan trọng đâu? Với phụ thân không quan trọng, với nàng thì lại càng không.

Nhưng Thẩm Thiều Quang lại hơi nghi hoặc, tuổi tác Vu Tam không lớn lắm, thế nhưng lại hiểu rõ chuyện này như vậy, chắc hẳn là người rất thân cận bên cạnh vị tứ lang kia, như thế sao lại bị bán chứ? Có biến cố gì khác sao? Nhớ tới chuyện hắn nói là bị đổi lấy một bàn tiệc cá, Thẩm Thiều Quang hơi chần chừ, cuối cùng vẫn hỏi: “Vị tứ lang này thật sự… hào sảng phóng khoáng như ngươi nói sao?”

Vu Tam biết nàng muốn hỏi cái gì, yên lặng một lát, sau đó đáp: “Hắn không đổi ta lấy tiệc cá.” Mà là… tặng không cho người ta.

Nhìn sắc mặt hắn, Thẩm Thiều Quang không hỏi lại nữa.

Thẩm Thiều Quang thu dọn sách, Vu Tam cũng giúp nàng, đến lúc thu dọn xong, rốt cuộc Vu Tam cũng hỏi: “Bởi vì chuyện Ngô Vương mà ngươi cửa nát nhà tan, ngươi có oán hận bọn hắn không?”

Lâm thiếu doãn cũng từng hỏi một câu tương tự, chỉ là một người hỏi nàng có oán trách phụ thân không, một người lại hỏi có oán trách Ngô Vương không, Thẩm Thiều Quang đều trả lời giống nhau.

Vu Tam lại như thể thở phào một hơi.

Thẩm Thiều Quang vỗ vỗ tay áo hắn, cười nói: “Dù cho ta có oán trách Ngô Vương thì cũng không liên quan gì tới ngươi.”

Vu Tam liếc nàng một cái, ôm rương sách lên: “Đặt chỗ nào?”

“Đặt chỗ bình phong của Lâm thiếu doãn đi.”

Nghe thấy ba chữ “Lâm thiếu doãn”, Vu Tam mấp máy môi muốn hỏi nàng, nhưng rồi cuối cùng vẫn không hỏi, chỉ ôm cái rương đi.

Lâm Yến từ phủ Kinh Triệu trở về thì nghe người gác cổng nói có một vị tiên sinh họ Sở tới, đã được Chu quản gia mời tới uống trà bên ngoài thư phòng.

Buổi sáng, Lâm Yến đã cho người đưa danh thiếp tới cho vị Tây Liễu tiên sinh này, bởi vì hắn ở trong phủ của Lý tướng, cho nên danh thiếp được đưa tới Lý phủ, muốn mượn cớ thảo luận học vấn để hỏi thăm chuyện Thẩm công và Ngô Vương năm đó, không ngờ rằng hắn lại đích thân tới.

Trong vụ án Thẩm công, thực ra mấu chốt vẫn nằm trên người Ngô Vương, nhưng vụ án Ngô Vương là án tôn thất mưu phản, thật sự không rút được hồ sơ ra. Trước kia Tây Liễu tiên sinh từng là thị lang bộ Hình, hẳn là hiểu rất cặn kẽ vụ án này – sợ thì chỉ sợ năm đó hắn dính líu với Ngô Vương quá sâu, lúc điều tra phải tránh tị hiềm.

Lâm Yến bước nhanh về phía ngoài thư phòng.

“Yến về muộn, đã để Sở tiên sinh phải đợi lâu.” Lâm Yến chắp tay hành lễ.

Thấy Lâm Yến hành lễ quá mức cung kính, Sở Lệ mỉm cười nói: “Hai lần gặp thiếu doãn, thiếu doãn đều khách sáo như vậy, mỗ thật sự không dám nhận.”

Sở Lệ tưởng tượng, nếu như Thẩm Ngũ không gặp chuyện, bây giờ cân nhắc chuyện hôn nhân cho A Tề, cho dù tiểu tử này có cung kính hơn nữa thì mình cũng vẫn sẽ không tránh khỏi bới móc nọ kia, có khi còn phải phái người điều tra tận cùng gốc gác…

Thấy chủ nhân đã trở về, Chu quản gia hành lễ rồi lui ra ngoài, tỳ nữ dâng trà lên xong cũng lặng lẽ lui ra.

Hai người Lâm, Sở ngồi đối diện nhau.

Lâm Yến đi thẳng vào vấn đề: “Yến muốn thỉnh giáo tiên sinh một ít chuyện cũ.”

Sở Lệ mỉm cười: “Mời thiếu doãn nói.”

“Về vụ án theo bọn phản nghịch của Thẩm công từng sống tại tòa nhà này mười mấy năm trước, không biết tiên sinh còn nhớ chăng?” Sắc mặt Lâm Yến rất trịnh trọng.

“Thẩm Ngũ là bạn chí giao của mỗ, sao có thể không nhớ? Chỉ là… tại sao thiếu doãn lại hỏi tới vụ án này? Bởi vì ở tòa nhà cũ này, cho nên sinh lòng tò mò? Mỗ nghe nói năm đó thiếu doãn cũng từng bôn ba tìm cách cứu Thôi công, cho nên sinh lòng đồng tình với Thẩm Ngũ, muốn biết rõ ràng hơn chăng?” Sở Lệ nhìn chằm chằm Lâm Yến.

“Đều không phải, là vì một vị bằng hữu.”

“Bằng hữu? Là nam hay nữ?” Sở Lệ nhướng mày.

Lâm Yến nhìn Sở Lệ, vị Sở tiên sinh này rất tinh mắt, xem ra đã nhận ra A Tề, thậm chí cũng đã biết tình cảm mình dành cho A Tề, Tây Liễu tiên sinh đúng là danh bất hư truyền – hơn nữa hắn bằng lòng tới đây hẳn cũng là vì nàng.

Sắc mặt Lâm Yến ấm áp hơn: “Tiên sinh chờ một chút.”

Lâm Yến ra cửa dặn dò Lưu Thường đi vào thư phòng lấy tráp đựng hồ sơ, chẳng bao lâu sau đã đưa tới. Lâm Yến đặt tráp xuống trước mặt Sở Lệ: “Đây là hồ sơ về vụ án của Thẩm công.”

Sắc mặt Sở Lệ dịu đi một chút, cũng coi như có lòng đấy.

“Chắc hẳn tiên sinh là từ quán rượu Thẩm Ký tới?”

Sở Lệ cũng không vòng vo với hắn nữa: “Làm sao thiếu doãn biết cô nương Thẩm Ký là nữ nhi của Thẩm Nhượng Chi? Chắc không phải là nàng tự nói chứ?”

“Lúc nàng ấy xuất cung, mỗ đang ở cửa An Phúc, có tra xét công nghiệm của nàng ấy.”

Sở Lệ: “…” Ta thật đúng là không nhìn nhầm ngươi! Kiểm tra công nghiệm à…

Lâm Yến cũng hơi ngượng ngùng, nhếch miệng, lại hành lễ: “Cũng mong tiên sinh giúp cho.”

Sở Lệ nhìn vẻ mặt hơi ngượng ngùng lại vô cùng nghiêm túc của Lâm Yến và cả cái vái chào ép mua ép bán vừa rồi, đột nhiên cảm thấy vị thiếu doãn này vẫn khá thú vị, không lạnh nhạt nghiêm túc như vẻ bề ngoài của hắn.

Sở Lệ cúi đầu, cầm hồ sơ lên xem, vẻ ung dung vừa rồi biến mất, trên mặt đầy vẻ bi ai.

“Lúc ấy có người mật cáo Ngô Vương làm phản, tiên đế còn chưa qua ba ty đã phái thẳng cấm quân lục soát phủ Ngô Vương, giam giữ tất cả những người có liên quan tới phủ Ngô Vương. Việc thẩm tra không tiến hành ở bộ Hình và Đại Lý Tự, nhưng bọn ta đều có nguồn tin. Phủ Ngô Vương đúng là có thứ trái luật thật, nhưng mà nói thật, có vương phủ nào mà không có vài thứ trái luật từ trong cung ra? Lúc đó bọn ta đoán, cùng lắm cũng chỉ là trách cứ Ngô Vương, phạt vài gậy rồi thôi, chắc cũng không đến mức đoạt tước, nào ngờ bệ hạ lại muốn giết người?”

“Ta lại vận dụng một ít quan hệ riêng để điều tra, nghe nói là Đại Đức Thanh Diệu Phụ Nguyên chân nhân bên cạnh tiên đế nhìn trời đêm, nhìn ra phản tinh, lại tính toán, ngôi sao phản này ứng lên người Ngô Vương.”

“Lúc đó đa số đại thần trong triều đều khuyên can, còn có người quỳ trước thềm điện can gián trần tình như Thẩm Ngũ, nhưng tiên đế độc đoán…” Lúc đó trong triều rối loạn, hoàng đế sùng Đạo, ăn đan dược, tính tình điên cuồng, dù trong triều có bậc kiên trinh nhưng cũng không thiếu kẻ đục nước béo cò, a dua nịnh hót, thậm chí còn có người mang lòng bất chính, nếu không phải tiên đế vì ăn thuốc mà chết thì bây giờ e là nước đã không ra nước nữa.

Mặc dù Lâm Yến làm quan muộn, lại bắt đầu từ chức quan nhỏ nhưng cũng đã từng trải qua thời tiên đế, cũng biết về cảnh tượng rối loạn khi đó.

“Đoạn sau vụ án Ngô Vương thì mặc dù bộ Hình cũng có tham dự, nhưng vì ta có qua lại với Ngô Vương nên đã bị tạm thời cách chức để tránh tị hiềm từ trước, về chuyện đạo sĩ kia có mưu đồ gì, phía sau có người khác hay không, trong chuyện này có còn ai khác tham dự nữa không, những chuyện sâu xa như thế thì ta không biết được.” Sở Lệ vỗ vỗ lên hồ sơ trong tay: “Ngay cả cái này cũng là lần đầu tiên ta được đọc.”

Mặc dù trong hồ sơ này nếu tìm cũng có thể tìm ra được chút dấu vết, nhưng dù sao cũng chỉ là hồ sơ “án theo bọn phản nghịch”, trong đó lại có nhiều chỗ mơ hồ, chỉ có chút ít thế này, lại vật đổi sao dời, người trong cuộc thì người chết đã chết, người còn sống cũng trôi giạt khắp nơi, mà quan trọng nhất là đương kim hoàng thượng vẫn đang đè ép chuyện này, muốn dựa vào đây để tìm ra bằng chứng gì đó lật lại vụ án thì chỉ sợ là rất khó.

Lâm Yến gật đầu: “Đa tạ Sở tiên sinh đã cho biết về chuyện năm đó.”

“Thiếu doãn là con nhà thế gia, cũng đã mặc áo quan đỏ tươi, nếu không thể lật lại bản án Thẩm Ngũ, thiếu doãn có tính toán gì không?” Sở Lệ nhớ tới mục đích tới đây chuyến này của mình.

“A Tề cũng vẫn là A Tề.”

Sở Lệ bị hắn làm cho nghẹn lời, thành ra bật cười, một lúc sau mới nói: “Thiếu doãn là người có lòng.”

“Chỉ sợ Thẩm cô nương lo ngại quá nhiều.”

Sở Lệ gật đầu, đúng là nàng lo ngại rất nhiều, tính khí cũng bướng bỉnh, ngươi còn phải cọ xát nhiều.

Mấy năm này, Sở Lệ đã nghĩ thoáng hơn rất nhiều, dù có lật lại được bản án thì ba người Thẩm gia cũng không sống lại được, chỉ cần A Tề sống tốt là được rồi. Vị Lâm thiếu doãn này mặc dù tính tình có vẻ hơi lạnh nhạt nhưng làm việc vẫn đáng tin, con người cũng coi như là chân thành, lúc này Sở Lệ cảm thấy A Tề tiếp tục ở đây mở quán rượu nhỏ cũng không phải là chuyện xấu, ài, đám nhi nữ…

Bên ngoài vang lên tiếng trống chiều, Sở Lệ đứng dậy: “Đa tạ thiếu doãn đã khoản đãi, hôm nay gặp được thiếu doãn, nghe thiếu doãn nói chuyện, trong lòng mỗ đã an tâm hơn không ít.”

Lâm Yến lại vội vàng hành lễ: “Yến đa tạ tiên sinh chỉ bảo.”

Hai người lại hàn huyên đôi lời, Sở Lệ đi ra ngoài, Lâm Yến chần chừ một chút: “Tiên sinh, Yến có một chuyện muốn thỉnh giáo…”

Sở Lệ nghiêng đầu: “Thiếu doãn cứ nói.”

“Mỗ còn chưa biết đại danh của Thẩm cô nương.”

Bước chân Sở Lệ khựng lại, tên đầu gỗ! Loại chuyện thế này không phải là ngươi nên tự đi hỏi A Tề sao? Thật uổng cho một khuôn mặt thông minh tuấn tú!

“Đã quên nói cho thiếu doãn, cô nương nói, nàng phóng túng, thiếu doãn lại nghiêm túc, tính tình không thích hợp.”

Lâm Yến: “… Đa tạ tiên sinh đã cho hay.”

* Về việc công nghiệm của nữ tử thời Đường không có đại danh coi như là tự giả sử, tác giả không tìm được tư liệu [tác giả]

 

Đăng trong Tiệm cơm nhỏ thành Trường An - Bánh Anh Đào

Tiệm cơm – Chương 66

Chương 66: Sở Lệ tới bái phỏng

Ngày hôm sau, Sở Lệ một mình tới quán rượu Thẩm Ký.

“A Tề…” Sở Lệ vào cửa, mỉm cười nhìn Thẩm Thiều Quang phía sau quầy.

Thẩm Thiều Quang cắn môi một cái, đi lên ngay ngắn hành lễ của bậc hậu bối: “Nhi bái kiến a thúc.”

A Xương suýt nữa đánh ngã chồng đĩa trong tay, từ lúc nào mà cô nương có thêm một vị a thúc thế này? Đây chẳng phải là vị khách hôm qua mới tới sao?

Vu Tam vừa vén mành phòng bếp lên nhìn thấy cảnh này thì sắc mặt cũng biến đổi. A Viên thì lại là người bình tĩnh nhất, cô nương nhà ta như thế, chớ nói là có vài vị thân thích là quý nhân, nếu nói là công chúa bị lưu lạc trong dân gian thì cũng chẳng khó hiểu.

Mặc dù trước đó đã chắc chắn, nhưng nghe chính miệng nàng thừa nhận, Sở Lệ vẫn rất kích động: “Tốt, tốt, Tiểu A Tề của chúng ta đã lớn thành cô nương rồi.”

“A thúc vẫn còn hệt như năm đó.”

Sở Lệ chăm chú quan sát Thẩm Thiều Quang, Thẩm Thiều Quang cũng cẩn thận quan sát Sở Lệ.

Sao có thể vẫn hệt như năm đó chứ? So sánh với dáng vẻ trong trí nhớ, nếp nhăn bên khóe mắt Sở a thúc đã nhiều hơn, bên tai đã có chút hoa râm, vị quan lớn trẻ tuổi đầy nhiệt huyết năm đó giờ đã trở thành một nhà nho hàn vi trầm ổn điềm tĩnh.

Hai người đều hơi thổn thức.

Thẩm Thiều Quang mời hắn về căn nhà phía sau.

Nhìn đám đào, dưa chuột, cà và mấy con gà con trong khoảng sân nhỏ, Sở Lệ cười cảm khái: “Năm đó phụ thân ngươi cũng nuôi mộng điền viên, dựng một mái nhà cỏ, trước nhà trồng đào trồng lê, sau nhà trồng rau trồng dưa, thậm chí còn vẽ thành tranh rồi.” Đáng tiếc…

Thẩm Thiều Quang nhớ tới câu thơ “Năm mươi sẽ từ quan, dong xe về Tuyền Lâm” trong sách, mỉm cười đáp: “Tay nghề trồng rau của nhi chắc là khá hơn của phụ thân một chút.”

Sở Lệ cười rộ lên.

Thẩm Thiều Quang vén rèm lên cho Sở Lệ, hai người đi vào phòng khách.

Nhà dân thường không so được với nhà quan, gian nhà nhỏ, ba mặt là tường trắng, tùy tiện bày mấy cái bàn nhỏ bằng gỗ du, trên bàn có đặt mấy quyển sách lật dở, có sợi dây mới tết được một nửa, còn có chén trà mới uống lưng chén, mặc dù mộc mạc nhưng lại thanh nhàn.

Sở Lệ liếc mắt nhìn bìa quyển sách kia, “A Phù La quốc du ký”, không khỏi mỉm cười.

Thẩm Thiều Quang hơi ngượng ngùng thu dọn lại một chút, mời Sở Lệ ngồi xuống, lại tự mình bưng nước ô mai ướp nước giếng lạnh lên.

Sở Lệ đưa mắt nhìn bức tranh treo ở tường bên, cánh cổng sơn đen với bức tường quét vôi trắng, từ bên trong tường lộ ra nửa cây hải đường, dưới tán cây rải rác tàn hoa, tranh không đề không khoản, chỉ đóng một con dấu “Lưu xuân trú”.

“Đây là bụi cây hải đường ở hậu viện sao?”

Mặc dù đã cố gắng làm cho mơ hồ nhưng vẫn không giấu giếm được người rõ chuyện, Thẩm Thiều Quang gật đầu, cười nói: “Lúc trời đang xuân có đi ngang qua tường nhà cũ, thấy bụi hoa này đã tươi tốt hơn rất nhiều.”

Vốn là chủ nhân mà bây giờ lại chỉ có thể đứng nhìn từ bên ngoài tường nhìn vào, Sở Lệ chậm rãi thở ra một hơi, mỉm cười nói: “A Tề vẽ rất khá, khéo hơn cha ngươi, chữ của hắn với tranh của hắn nhìn không giống như của cùng một người.”

Thẩm Thiều Quang bật cười, quay đầu xem bức tranh kia, nàng vẽ để giết thời gian, vừa có cái nét thanh đạm nhàn hạ của tranh thủy mặc lại vừa có cái nét rực rỡ tươi đẹp của lối vẽ chấm phá, đúng là rất tốt, híp mắt cười với Sở Lệ: “Nhi đắc ý lắm đấy, nếu không thì đã chẳng treo lên.”

Sở Lệ cười lấy tay khẽ gõ nàng một cái.

Hàn huyên mấy câu, Thẩm Thiều Quang hỏi thăm tới người nhà của Sở Lệ, sau đó kể lại chuyện xuất cung và cuộc sống trong Dịch Đình.

Vật đổi sao dời, đương nhiên sẽ chỉ lựa cái tốt mà nói, Thẩm Thiều Quang nói về mấy vị tiến sĩ dạy học trong Dịch Đình: “Triệu tiến sĩ yêu rượu, tự kể rằng nếu ra ngoài bán chữ được nhuận bút thì bảy phần sẽ dâng cho quán rượu… Phương tiến sĩ không thích nói chuyện lại rất kĩ tính, có một lần vì thái giám đốt nhầm hương mà không chịu dạy đàn… Lưu tiến sĩ thì lại hơi lải nhải, thường nói “Các ngươi mặc dù không cần thi cử nhưng cũng phải hiểu sơ qua về chú giải Kinh Thư”…” Thẩm Thiều Quang bắt chước giọng điệu của Lưu tiến sĩ.

Những người nàng kể là những tiến sĩ đứng đắn nghiêm chỉnh lúc đầu chứ không phải bọn hoạn quan được sung làm thầy về sau.

Trong đó có Triệu Tư Niên là người Sở Lệ đã từng tìm để hỏi thăm về tình hình mẹ con Thẩm thị, bây giờ nghe nàng nhắc tới, lại nghĩ tới tình cảnh lúc đó.

Thẩm Thiều Quang cũng kể một ít chuyện trong ngự thiện phòng: “Trong đó nhiều cung nữ thái giám như vậy, thực ra có hơi thừa người thiếu việc. Giờ này thì hơn phân nửa là đang nghe nội giám kể chuyện xưa thôi. Nào là yêu tinh hoa sen trong ao Thái Dịch, rồi thì yêu quái chuột trong ngự thiện phòng…”

Cuộc sống ở Dịch Đình hiện lên qua lời kể của Thẩm Thiều Quang là những năm tháng tốt đẹp, thế nhưng nàng càng nói như vậy thì trong lòng Sở Lệ càng chua xót, một hài tử nho nhỏ phải bị mài giũa gọt đẽo như thế nào thì mới có thể phát hiện ra những điều tốt đẹp nhỏ nhoi như vậy để nói.

Còn đầu đuôi chuyện xuất cung thì đơn giản hơn, Thẩm Thiều Quang cười nói: “Năm ngoái trời hạn hán, thả một số cung nữ ra khỏi cung, nhi đút cho vị thái giám phụ trách việc đổi cung nữ một ít tiền, báo bệnh, thế là cũng được ra.” Thẩm Thiều Quang lại nghĩ tới Lâm thiếu doãn, khi đó vị huynh đệ này bày ra một khuôn mặt lạnh lùng, đúng là khiến người ta sợ thật, đâu có ngờ rằng bây giờ lại cùng hắn nghiên cứu vấn đề tình cảm.

Sở Lệ không hỏi nàng tại sao không về Lạc Dương, rõ ràng Tiểu A Tề là một người có chủ ý, không phải như mấy cô nương mảnh mai chỉ biết ngượng ngùng xấu hổ, nếu đã có thể tự mình kiếm sống được thì cần gì phải đi gây phiền phức cho người khác rồi chính mình cũng không được thoải mái?

Nói xong tình huống của bản thân, Thẩm Thiều Quang cũng đặt câu hỏi: “Sao a thúc có thể nhận ra ta?” Lý tướng công không hề nhận ra.

Sở Lệ cười đáp: “Ta vốn ở bộ Hình, chỉ dựa vào một bức phác họa giống không quá năm phần đã có thể nhận ra tội phạm nam giả nữ.”

Thẩm Thiều Quang mở to hai mắt, không biết tài quan sát như vậy là do trời sinh hay là kết quả của quá trình tập luyện lâu dài.

Điều mà Sở Lệ không nói ra là hắn và Thẩm Khiêm quen nhau từ thuở thiếu thời, không giống như Lý Tương là về sau mới quen, hai nhà lại ở ngay sát nhau, cho nên hắn cũng quen thuộc với a tẩu Thẩm gia, mặt mày A Tề giống mẹ, miệng lại giống cha.

Nếu đã nói tới đây, Thẩm Thiều Quang cũng thẳng thắn nhờ Sở Lệ: “Cũng mong a thúc đừng nói với Lý tướng chuyện của ta, dù sao Lý bá phụ cũng là người làm quan, không biết có bao nhiêu người dõi theo nhất cử nhất động của hắn đâu, thân phận của nhi thế này thực sự không thích hợp để liên lụy.” Mấu chốt là khiến cho người ta khó xử. Lòng nhớ thương người bằng hữu thân thiết đã mất và việc tiếp thu một mối phiền phức lâu dài mà người bằng hữu để lại là hai chuyện khác nhau. Cứ để tấm lòng hoài niệm cố nhân tốt đẹp ấy được lưu giữ tiếp đi.

Sở Lệ chậm rãi gật đầu, nhìn vào mắt Thẩm Thiều Quang: “Ta thì không ngại.”

Thẩm Thiều Quang híp mắt cười nói: “A thúc không cảm thấy cuộc sống của nhi hiện tại rất tốt sao? Có nhà mái cỏ, có đào có lê, có rau có dưa.” Mượn mấy lời Sở Lệ nói về giấc mộng điền viên của Thẩm Khiêm.

Sở Lệ cười khiển trách: “Nếu ngươi là tiểu lang quân thì ta cũng chả thèm quản ngươi.”

Nói đến đây, Sở Lệ lại nhớ tới Lâm thiếu doãn “dáng vẻ khả nghi”, mặc dù đây không phải là chuyện thích hợp để một vị thế thúc nói với cháu mình, nhưng bây giờ cũng không có cách nào khác, hắn không thể không làm, huống hồ A Tề cũng không phải kiểu cô nương rụt rè e lệ: “Ngươi và vị Lâm thiếu doãn kia…”

Thẩm Thiều Quang cảm thấy vị từng là thị lang bộ Hình này đúng là cực phẩm, nếu không phải hắn từ quan sớm thì có lẽ có thể đi vào sử sách, thời sau có khi còn trở thành nhân vật chính trong tiểu thuyết và phim ảnh, như là “Sở công án”, “Thần thám Sở Lệ” gì đó.

Thẩm Thiều Quang cũng không ngần ngại: “Vị thiếu doãn kia tính tình quá lạnh, nhi lại quá phóng túng, không thích hợp.”

Tính cách không hợp thật đúng là một lý do tốt ở cả mọi thời đại, Sở Lệ nuốt lại lời đã lên tới khóe miệng, nhướng mày nhìn nàng, Thẩm Thiều Quang mỉm cười.

Một lát sau, cuối cùng Thẩm Thiều Quang cũng chịu bày ra vẻ đứng đắn: “Dù nhi tới Lạc Hạ hay đi theo a thúc hay là Lý tướng công thì vẫn là nữ nhi của tiên phụ, nếu đã không mất cái thân phận này thì ở đâu cũng như nhau mà thôi. Những chuyện này là trách nhiệm của nhi thì để nhi gánh vác là được.”

Sở Lệ nhớ tới mười mấy năm trước, cái người vẫn luôn thong dong và có chút phóng túng kia tỏ rõ thái độ dứt khoát: “Ta chỉ làm chuyện mình nên làm.”

Sở Lệ nhìn chăm chú Thẩm Thiều Quang, thật đúng là cha con ruột!

Thẩm Thiều Quang lại cười rộ lên, nói rất chân thành: “Nói thật, nhi thực sự rất thích cuộc sống như hiện giờ. A thúc xem, nhi xuất cung mới được một năm mà đã có quán rượu này, còn mua được một căn nhà nhỏ, nói chưa chừng một thời gian nữa sẽ trở thành một phú ông ở thành Trường An cũng nên. Tới lúc đó sẽ mua một căn nhà to ở núi Chung Nam, ở sông Vị Hà cũng thêm một căn nữa, bao giờ a thúc trở lại Trường An thì chúng ta sẽ cùng nhau tới Nam Sơn đi săn, tới Vị Thủy câu cá…” Thẩm Thiều Quang cho A Viên A Xương ăn nhiều bánh vẽ quá, nhắc đi nhắc lại nhiều, đến giờ tự mình cũng cho là thật.

Cuối cùng Sở Lệ cũng bị nàng chọc cho bật cười: “A Tề của chúng ta không chỉ có tay nghề nấu nướng xuất sắc mà còn có tài làm ăn buôn bán nữa.”

Thẩm Thiều Quang nói khoác mà không biết ngượng: “Thật đáng tiếc nhi không phải thân nam nhi! Nếu không thì cũng đã là rường cột quốc gia rồi.”

Sở Lệ bật cười, trong lòng lại càng tiếc nuối hơn, lúc còn bé A Tề khá ngây thơ, bây giờ sự ngây thơ đó chỉ còn là biểu tượng nữa mà thôi.

Nhìn sắc trời bên ngoài, bất tri bất giác đã gần giữa trưa, Thẩm Thiều Quang cười nói: “Hôm qua thiếu thịt thiếu rau, hôm nay a thúc nhất định phải nếm thử tay nghề của nhi.”

Thẩm Thiều Quang tìm mấy quyển sách cho Sở Lệ, mời hắn cứ tự nhiên, nàng đi ra quán sắp xếp chuyện cơm nước.

Nói là nếm thử tay nghề của nàng, nhưng mà để khách ngồi một mình lâu quá cũng không tiện, Thẩm Thiều Quang chỉ làm một con cá thái lát, còn lại đều do công chúa Vu Tam làm. Hôm nay công chúa Vu Tam vô cùng yên tĩnh, ngay cả ánh mắt cũng cụp xuống, cái tính khí này của công chúa thật là…

Thẩm Thiều Quang quay trở lại tán gẫu với Sở Lệ, bây giờ thì nói sang học vấn, Thẩm Thiều Quang bị kiểm tra cho toát mồ hôi.

A Viên và A Xương bưng khay đồ ăn ra hậu trạch, Thẩm Thiều Quang thở phào nhẹ nhõm một hơi, kẻ lười học một mình đối mặt với sự kiểm tra của giáo viên thật là đáng sợ.

Sở Lệ lại tiếc nuối, học vấn của A Tề so với các cô nương ở tuổi này thì đúng là rất tốt, nhưng nếu so với các nữ tiên sinh trong thư viện thì vẫn còn chênh lệch, nếu không thì cũng có thể tới thư viện, nói cho cùng thì một cô nương một mình ở đây buôn bán cũng không thích hợp. Sở Lệ lại nghĩ tới vị Lâm thiếu doãn kia, A Tề thực sự không có gì với hắn sao?

Vị Lâm thiếu doãn kia đúng là tính tình hơi lãnh đạm thật… Sở Lệ hơi cau mày.

“A thúc nếm thử món bạch trảm kê này xem.” Thẩm Thiều Quang mời.

Miếng thịt gà cắt ra trong xương vẫn còn loáng thoáng màu đỏ, Thẩm Thiều Quang cười nói: “Ý tứ của món này là “thịt chín xương không chín”, là dùng nước sôi ngâm chín nên mới non mọng như vậy.”

Sở Lệ gắp một miếng, chấm nước tương ăn, đúng là da trơn giòn, thịt lại ngọt ngon.

Thẩm Thiều Quang lại mời hắn nếm thử cá thái lát: “Món cá thái lát này là nhi tự nêm nếm, a thúc nếm thử xem.”

Món cá thái lát này không giống như kim tê ngọc quái, cá trắm cỏ thái ra thành lát trộn với gừng, hành thái sợi, tỏi giã nhỏ, rau thơm cắt khúc, dầu chao, vừng, miến và các loại gia vị, cùng loại với gỏi hải sản thời hiện đại.

Sau một năm mở quán cơm, kỹ thuật cắt thái của Thẩm Thiều Quang đã tiến bộ hơn không ít, lát cá mỏng lại đều, sau khi được trộn như vậy thì vừa trơn vừa tươi vừa non, rất thích hợp để ăn vào ngày hè nóng bức như thế này, vừa ngon vừa thanh miệng.

Thẩm Thiều Quang nói về bí quyết làm món cá này: “Điểm quan trọng nhất là ở dưới mang và đuôi cá đều phải chặt đứt bằng một nhát dao, cho chảy hết máu, nếu không thì màu sắc sẽ không sạch mà lại có vị tanh.”

Thẩm Thiều Quang lại nói đùa: “A thúc là quân tử xa chốn nhà bếp, nghe ta nói thế này mong là a thúc sẽ không “không nỡ ăn”, nếu không chẳng phải con cá này đã chết vô ích sao?”

Nhìn cô nương lém lỉnh hoạt bát, ăn món cát thái lát mỹ vị, Sở Lệ đột nhiên cảm thấy cuộc sống chốn phố phường như này đúng là rất tốt.

 

Đăng trong Tiệm cơm nhỏ thành Trường An - Bánh Anh Đào

Tiệm cơm – Chương 65

Chương 65: Khách quý ngày mưa

Sau nhiều ngày nắng nóng thì cuối cùng trời cũng chịu đổ một trận mưa, sấm chớp rền vang, mưa lớn như nhựa lúa mì.

Thẩm Thiều Quang xách cái ghế kiểu Hồ ra ngồi trước cửa, vừa nhặt rau vừa xem mưa.

“Mưa lớn như nhựa lúa mì” không phải là cách nói do Thẩm Thiều Quang tự nghĩ ra mà là đọc được trong tiểu thuyết của Diệc Thư ở kiếp trước. Diệc Thư còn nói: “Phiền muộn tình cũ như mộng, lúc mưa rào xối xả, lúc sóng biển xô bờ cát.”

Thẩm Thiều Quang không có tình cũ như mộng nào cả. Đương nhiên thì lúc còn trẻ cũng có nhìn nhau thuận mắt, là một nam sinh cao gầy, hai người ngồi bàn trước bàn sau, cùng nhau trải qua những năm tháng vùi đầu trong núi đề, thường xuyên mỗi người một bên tai nghe cùng nghe những bài hát cũ của Backstreet Boys, bên tai vang vang “As long as you love me”, nhìn nhau bật cười.

Thi đại học xong điền nguyện vọng người chọn trời nam người chọn đất bắc, lúc đó chút mơ màng trong tiếng ca chẳng mấy chốc đã bị cuốn trôi giữa cuộc sống đại học tự do và náo nhiệt. Sau đó thì anh chàng kia tới Florida nơi Backstreet Boys xuất đạo, học nghiên cứu sinh ở UF, lấy bằng tiến sĩ xong thì quyết định ở lại Florida tận hưởng ánh mặt trời và sóng biển nơi đó.

* UF: University of Florida.

Lúc Thẩm Thiều Quang học đại học, vì nhất thời ấm đầu mà học thêm một chuyên ngành biến thái, gần như lo tới hói cả đầu, rồi lại còn bận rộn kiểm tra thi cử, bận rộn thi lấy chứng chỉ, bận rộn làm thêm kiếm tiền, ngày nào cũng vác laptop đạp cái xe đạp cà tàng trên con đường giữa ký túc xá, phòng tự học, thư viện, nhà ăn và chỗ làm thêm ngoài trường. Yêu đương ư? Không hề tồn tại.

Sau khi đi làm thì lại càng chẳng yêu đương gì, một mặt là vì ham hố chơi bời, biết đêm khuya lại chẳng biết ánh bình minh; một mặt khác là bởi vì cái gì cũng phải đặt lên cán cân, tính toán cân nhắc đủ thứ. Cái kiểu tình cảm sâu sắc oanh liệt thì chỉ có trong mấy bài hát mà thôi.

“Nguyên lai xá tử yên hồng khai biến, tự giá bàn đô phó dữ đoạn tỉnh đồi viên…*”

* Trích Màn 10 Kinh Mộng của vở “Mẫu đơn đình” (Hoàn hồn ký, Đỗ Lệ Nương mộ sắc hoàn hồn ký), một vở kịch kinh điển của Trung Quốc. Ý câu trên là những điều tốt đẹp khi xưa đều đã biến mất, trả lại cảnh hoang tàn ngày trước.

Lâm thiếu doãn à, nếu như gặp được nhau ở kiếp trước thì tốt biết bao nhiêu…

A Viên cười hỏi: “Cô nương hát gì mà nghe hay quá?”

Một trong những bài hát ru trước kia chăng? Thẩm Thiều Quang khẽ thở dài một hơi, cười nói: “Hôm nay chúng ta ăn canh vịt bí đao đi?”

A Viên mở to hai mắt, vỗ tay cười nói: “Vậy được! Vậy được!” Suốt mấy ngày liên tục ăn cháo với rau, A Viên cảm giác mình cũng sắp giống rau luộc luôn rồi.

Tốt quá hóa dở, Thẩm Thiều Quang bỏ lệnh cấm cho A Viên nhưng vẫn dặn dò: “Chỉ được ăn no bảy phần, nếu không sẽ làm hỏng dạ dày, lại phải nhịn thêm một trận nữa.”

Không có khách tới, Vu Tam đang lần lượt mài lại các loại dụng cụ cắt gọt trong quán từ dao chặt, dao thái rau, dao thái thịt tới dao gọt hoa quả.

“Chậc chậc,” Thẩm Thiều Quang gật đầu: “Nói thật chứ Tam lang, nhìn ngươi thế này rất có phong thái hiệp khách.”

Vu Tam không thèm để ý đến nàng, tiếp tục “xoẹt xoẹt xoẹt…”

Thẩm Thiều Quang chờ hắn mài xong cây dao này thì nói về dự định hầm canh vịt, nhờ hắn đi giết vịt, Vu Tam không nói gì, khoác áo tơi, đội nón tre, đi ra hậu viện bắt vịt.

Vịt này không phải vịt nuôi trong nhà mà là do hàng thịt đưa tới hôm qua còn chưa ăn đến. Con vịt được sống thêm một ngay đang hưởng thụ dòng nước ngọt lành từ trên trời rơi xuống, nào ngờ cứ như vậy mà hứng chịu tai họa.

Chẳng bao lâu sau Vu Tam đã quay lại, Thẩm Thiều Quang vội vàng đi tới nhận lấy cái chậu trong tay hắn, phát hiện hắn đã dùng nước giếng rửa sạch rồi. Công chúa Vu Tam này ấy à, kiêu thì kiêu thật, nhưng mà chu đáo cẩn thận tỉ mỉ thì cũng chu đáo cẩn thận tỉ mỉ thật. Đúng là chả hiểu nổi chủ nhân trước kia của hắn nghĩ thế nào nữa.

Thẩm Thiều Quang bưng chậu quay vào bếp, lột đi lớp da để bớt dầu mỡ, sau đó bắc nồi dầu lên, cho hành, gừng vào đảo cho có mùi rồi cho thịt vịt vào xào, cho thêm một chút đường, muối và gia vị, lại thêm chút rượu vàng, sau đó cho nước vào, nước chỉ được cho vào một lần, trong lúc nấu phải nhớ hớt bọt, rồi cứ để lửa nhỏ từ từ ninh là được.

Phương pháp ninh canh thế này cũng là học được từ chỗ cô nàng cùng phòng người miền nam kia, thuộc top món ăn kinh điển trong số các món ăn nấu bằng nồi cơm điện trong ký túc xá, Thẩm Thiều Quang là người miền bắc, ăn vịt thì lúc nào cũng cứ thêm bia vào ninh, đương nhiên, món vịt nổi tiếng nhất vẫn là vịt quay.

Mưa to thì khó mà kéo dài được, lúc cho vịt vào nồi thì mưa cũng nhỏ lại, tí ta tí tách chừng hơn một canh giờ, đến khi có thể cho bí đao vào trong nước canh thì mưa đã ngừng – Thẩm Thiều Quang nhìn trời, đã sắp giữa trưa rồi, bây giờ tạnh mưa thì có còn khách đến nữa không đây?

Có thì đương nhiên là có, ví dụ như là vị Lâm thiếu doãn “trèo đèo lội suối” mà đến kia.

Mặc dù là ngày nghỉ nhưng cũng hiếm khi thấy hắn tới ăn bữa chính, Thẩm Thiều Quang hơi ngạc nhiên.

Lâm Yến cởi ủng đi mưa đặt ở cửa, đổi sang đôi guốc mộc trong quán, mỉm cười nói: “Hôm nay bà nội cùng ăn trưa với Viên Giác sư thái của am Quang Minh.”

Thẩm Thiều Quang gật đầu, thật là tốt, hai lão thái thái vừa thích ăn lại vừa biết ăn chắc chắn là sẽ rất hợp cạ nhau… Mà không đúng, vừa rồi ta đã hỏi đâu. Thẩm Thiều Quang quyết định phải quản lý biểu cảm trên khuôn mặt mình chặt chẽ hơn nữa, đặc biệt là đôi mắt.

Lúc đi ngang qua người Thẩm Thiều Quang, Lâm Yến dừng chân lại, cười hỏi: “Hôm nay làm món gì mà thơm như vậy?” Giọng nói rất tùy ý và thản nhiên – cứ như thể lang quân ra ngoài trở về hỏi nương tử nhà mình vậy.

Thẩm Thiều Quang ngẩng đầu, hắn vốn đã cao, đi thêm guốc mộc lại càng cao hơn nữa, khoảng cách lại gần, Thẩm Thiều Quang chỉ có thể “ngước nhìn”, bắt gặp đôi mắt ngậm ý cười kia, Thẩm Thiều Quang lại dời mắt đi, hôm nay hắn mặc áo kiểu người Hồ, lộ ra một nốt ruồi đỏ nho nhỏ cạnh xương quai xanh…

Thẩm Thiều Quang hắng giọng: “Canh vịt hầm bí đao.”

“Rất tốt, thích hợp để uống vào mùa hè, cho ta một bát bỏ ít hồ tiêu.” Lâm Yến cười nói, sau đó đi tới chỗ ngồi quen thuộc của mình.

Thẩm Thiều Quang nhìn bóng lưng của hắn, nhà nho các ngươi đều không khách khí thế sao? Đó là ta hầm cho nhà ta ăn thôi đấy!

Nói thì nói thế nhưng bát canh vịt hầm bí đao này vẫn phải múc cho hắn, lại kèm thêm vài cái bánh nướng vừng và mấy món ăn nhẹ.

Trong lúc Lâm Yến ngồi chờ canh thì có hai người đi vào, một vị là Lý tướng công, một vị khác ước chừng trên dưới bốn mươi, mắt to mày rậm, mặt chữ điền cằm vuông, tướng mạo vô cùng đoan chính.

Lâm Yến đứng lên hành lễ: “Lý tướng công.”

Lý Duyệt hơi ngạc nhiên, cười nói: “Là An Nhiên đấy à.” Vừa rồi mới ngồi xe đi dạo quanh Lâm trạch một vòng, cảm xúc bùi ngùi còn chưa tan hết thì lại gặp được chủ nhân hiện tại của tòa nhà.

Thẩm Thiều Quang nghe thấy động tĩnh bên ngoài thì đi ra khỏi bếp, hai vị khách quay đầu, ký ức cũ bỗng chốc ùa về, đây là Sở Cửu, a thúc Sở gia.

Thẩm Thiều Quang ngẩn ra.

Lý Duyệt cười với nàng một cái, Sở Lệ thì nhíu mày nhìn nàng như có điều suy nghĩ.

Lý Duyệt giới thiệu hai người Sở, Lâm với nhau.

Sở Lệ, đại nho đương thời, dạy học ở thư viện Quảng Bình, rất được người đọc sách kính ngưỡng, Lâm Yến lấy thân phận hậu bối để hành lễ, miệng nói: “Sở tiên sinh.”

Sở Lệ có không ít học sinh ở độ tuổi này, chỉ là không có ai đã mặc tới áo quan màu đỏ như Lâm thiếu doãn. Về người trẻ tuổi đang ở trong căn nhà cũ của người bằng hữu đã mất của mình này, cái nhìn của Sở Lệ hơi phức tạp, nhưng bới móc một hồi lại không thể không thừa nhận rằng phong thái thế này cũng coi như xứng với rặng trúc xanh của Thẩm Ngũ, trên mặt hiện lên nụ cười khách khí: “Mỗ chỉ là kẻ chốn thôn quê, xin Lâm thiếu doãn chớ đa lễ như vậy.”

Ba người lại chào hỏi thêm vài câu rồi ngồi xuống.

Thẩm Thiều Quang bưng khay đi tới, dâng đồ uống và thực đơn lên, cười hỏi: “Các quý nhân xem xem muốn gọi món gì?”

“Xin hỏi cô nương, đã gọi “Thẩm Ký”, chủ quán này là họ Thẩm chăng?” Sở Lệ hỏi.

Thẩm Thiều Quang cười đáp: “Nhi đúng là họ Thẩm.”

Mắt Sở Lệ hơi lóe lên tia sáng, lại chăm chú nhìn Thẩm Thiều Quang một lúc, vì ở trước mặt người ngoài nên không tiện hỏi nhiều, chỉ khẽ gật đầu.

Lý Duyệt biết hắn đang nghĩ ngợi điều gì, đi tới phường Sùng Hiền này, lại vừa đi qua nhà của cố nhân, trong đầu đầy ắp chuyện cũ, bây giờ nghe thấy chữ “Thẩm” thì khó tránh khỏi suy nghĩ nhiều.

Năm đó mặc dù Lý Duyệt ở Giang Nam nhưng cũng từng nhờ người hỏi thăm, nghe nói là em dâu Thẩm gia mất trong Dịch Đình, A Tề cũng bệnh nặng, một nữ hài nho nhỏ lại được nuông chiều từ bé, không có người lớn che chở, ở nơi như thế…

Lý Duyệt nhìn người bằng hữu lâu năm của mình, nói với Thẩm Thiều Quang: “Có cái gì cô nương cứ đưa lên là được. Mỗ bây giờ không mang bao nhiêu bạc nhưng con ngựa ngũ hoa bên ngoài kia thì có thể để lại cho ngươi.”

Thẩm Thiều Quang bật cười, cố tỏ vẻ rất thoải mái: “Các quý nhân ở đây…” Lại cố ý liếc mắt nhìn vị Lâm thiếu doãn phó thị trưởng thường vụ thành Trường An quản đủ cả dân chính, thương mại, trị an kia: “Nhi cũng không dám làm thịt trâu*.”

* Ở thời đó có rất nhiều quy định hạn chế về giết mổ trâu, những con trâu còn khỏe mạnh thì không được giết, trâu bị bệnh hoặc già muốn giết thì phải tới quan phủ làm thủ tục rất phức tạp. [tác giả]

Hai người đều dùng điển tích trong “Tương tiến tửu” của Lý Bạch*.

* Câu mà Lý Duyệt dùng là “Ngũ hoa mã, thiên kim cừu”, tức “Ngựa hoa năm sắc, áo cừu giá ngàn vàng” (xem chú thích chương 43); câu Thẩm Thiều Quang dùng là “Phanh dương tể ngưu thả vi lạc”, nghĩa là “Mổ dê giết trâu cứ vui cái đã”.

Một câu nói khiến Lý Duyệt cười vang, Sở Lệ và Lâm Yến đều liếc mắt nhìn Thẩm Thiều Quang, cũng cười.

Thẩm Thiều Quang mỉm cười gật đầu hành lễ, cầm khay lui vào bếp chuẩn bị cơm nước.

Lý tướng công khẩu vị lẫn lộn, lại là tiệc mời khách, vừa đúng lúc hôm nay trời mưa, hàng thịt không đưa thịt tới, Thẩm Thiều Quang vắt hết cả óc, dùng hết cả gà, chim cút ở hậu viện, hai con cá chép hoa còn sót lại trong thùng nước ở trong bếp, thịt khô, cá muối, tương thịt, chao đậu phụ ở trong nhà kho, kèm với rau xanh, tốt xấu gì cũng bày ra được chút dáng vẻ của một bàn tiệc.

Lý Duyệt chỉ vào nửa cái đầu cá trên bàn ăn, cười nói: “Cái này ăn rất có mùi vị, các ngươi nếm thử xem.”

Đây là đầu cá được chưng với nước tương từ hạt sẻn. Tương sẻn không cay được như ớt, nhưng mà lại có một thứ mùi thơm hấp dẫn, lại còn có thể khử tanh.

Cách làm cũng tương tự như làm đầu cá chưng ớt thời hiện đại, đầu cá bổ đôi, dùng muối, rượu vàng, gừng ướp lên cho ngấm vị, đặt vào trong đĩa, phần có da hướng lên, phía trên rải gừng băm và nước tương sẻn, cho vào nồi chưng chừng một tuần trà thì rắc tỏi giã, hành băm nhỏ và tưới dầu hoa tiêu lên là xong.

Món đầu cá chế biến theo cách này thơm nồng tươi mới, nếu so sánh với đầu cá hầm đậu phụ thì… chắc hẳn là giống như lạt muội* so với thục nữ?

* Lạt muội là cách gọi tiếng Trung của “gyaru” trong tiếng Nhật vốn dùng để định nghĩa một phong cách thời trang, chỉ những cô gái trẻ tuổi ăn mặc nóng bỏng và sặc sỡ.

Rõ ràng Lý tướng công rất thích “lạt muội”, a thúc Sở gia thì cũng bình thường, Lâm thiếu doãn ăn một miếng, mặc dù nét mặt như không có việc gì nhưng Thẩm Thiều Quang thấy hắn uống cạn một cốc nước.

Xem ra Lâm thiếu doãn thuộc phe “thục nữ” rồi.

Thẩm Thiều Quang bảo A Viên rót đầy cốc đồ uống cho ba người, còn nàng thì tới phòng bếp bưng ba bát canh vịt hầm bí đao lên: “Ngày hè nắng nóng, mời các quý nhân ăn chút vịt để trừ ẩm thấp.”

Trên bát canh vịt chỉ có vài giọt mỡ lấm tấm, bên trong là ba miếng thịt vịt, mấy miếng bí đao gọt vỏ có màu hơi xanh, hai quả táo đỏ, ba bốn hạt câu kỷ tử, đặt giữa bát sứ trắng bóc, trông cực kỳ đẹp mắt.

Lâm Yến liếc nhìn nàng một cái, cầm thìa múc một miếng bí đao cho vào trong miệng, cảm giác khô nóng lúc ăn cá rốt cuộc cũng được ép xuống, khóe mắt không khỏi hơi cong lên.

“Những cô nương mỗ đã gặp đều không được tay nghề tốt như cô nương.” Sở Lệ uống một ngụm canh, nhìn Thẩm Thiều Quang cười nói.

Thẩm Thiều Quang cười đáp: “Nhi dựa vào cái này để kiếm ăn, làm nhiều rồi quen tay mà thôi.”

Sở Lệ lặng lẽ gật đầu.

Lâm Yến liếc mắt nhìn hàng tóc mai ẩm mồ hôi của nàng, nghĩ tới những cô nương ngày ngày sống trong nhung lụa, trong lòng đột nhiên cảm thấy chua xót, A Tề của ta…

Thẩm Thiều Quang lại hành lễ rồi cầm khay lui đi.

Lý Duyệt cũng cảm thấy Sở Lệ nhìn cô nương mở quán rượu không giống với các cô nương khác, nghĩ tới các cô nương lại nghĩ tới chuyện làm mai cho Lâm Yến với Tiểu Ngũ Tần gia, bây giờ Tần ngũ nương đã hứa hôn với cháu trai nhà Tín Dương công, hai nhà Lâm Tần rõ ràng là trai tài gái sắc lại không có duyên phận.

Lý Duyệt cũng không trách Lâm Yến mà ngược lại còn rất tán thưởng sự kiên định và tình nghĩa của hắn, lập tức cười nói: “Nhắc tới các cô nương, An Nhiên tuổi tác cũng không nhỏ nữa, cũng đến lúc thành gia rồi.”

Lâm Yến liếc mắt nhìn về phía bức rèm cửa màu lam trước bếp, mỉm cười nói: “Phải, bà nội đã bắt đầu xem xét rồi.”

Lý Duyệt nghe nói thái phu nhân Lâm gia đang xem xét thì đương nhiên sẽ không nói thêm nhiều nữa.

Sở Lệ ở đối diện Lâm Yến hơi nhướng mày, lại liếc mắt quan sát vị Lâm thiếu doãn này, bưng bát canh lên múc một miếng bí đao lên ăn, phối với mấy cây trúc thì còn ổn, nếu là cái khác – có phải là hơi thanh đạm không?

 

 

 

Đăng trong Tiệm cơm nhỏ thành Trường An - Bánh Anh Đào

Tiệm cơm – Chương 64

Chương 64: Bày tỏ kiểu thế này

Thẩm Thiều Quang đang ngồi bóc củ hương bồ trong bếp.

Cái món hương bồ này, kiếp trước chỉ biết là ở Hoài An và Tế Nam là nhất.

Hoài An ở phía nam, tới cuối xuân thì đi đào hương bồ, phổ biến nhất là gói sủi cảo nhân thịt lợn hương bồ, ai mà thích ăn tươi ngon hơn một chút thì có thể cho thêm tôm nõn bóc vỏ; hoặc là bỏ vào trong canh thịt gà mái già, đến khi canh chín thì vớt hương bồ ra, cho thêm muối và gia vị là xong, canh gà mái già hương bồ hầm kiểu thế này vừa thơm nồng lại vừa ngon ngọt; hoặc cũng có thể xào với lươn, với tôm khô, chưng với sư tử đầu, hoặc cho dù chỉ lấy một loại rau xanh bất kỳ nào đó mang lên xào chung cũng rất tươi ngon.

Tế Nam thì ở phía bắc, muốn ăn hương bồ phải đợi tới hè. Bình thường có thể xào không, xào với thịt, cho vào nước lẩu, lăn bột chiên giòn, nhưng nổi tiếng và kinh điển nhất vẫn là canh sữa hương bồ.

Nhưng mà không biết là vì vận may của Thẩm Thiều Quang không đủ hay là hiểu không đúng mà mấy lần ăn “canh sữa hương bồ” thì nước canh đều dùng là bột mì điều hòa, cho thêm các loại tôm nõn bóc vỏ, chân giò hun khói và hải sâm gì đó, màu sắc rất bắt mắt, mùi vị cũng không tệ, nhưng Thẩm Thiều Quang luôn cảm thấy thiếu thiếu thứ gì đó – trong cách hiểu của Thẩm Thiều Quang thì “canh sữa hương bồ” là dùng xương để chế biến nước dùng.

Thẩm Thiều Quang thực sự không ngờ rằng ở Đại Đường, ở Trường An mà cũng có hương bồ tươi, đây là cơ hội trời cho để nàng thử làm canh sữa hương bồ sao?

Hàng rau nói rằng hương bồ này mọc ở ven Vị Thủy, sau khi hái lên thì dùng bùn ướt bọc lại, giục ngựa đưa về Trường An. Hàng rau nhận rồi thì rửa sạch bày sạp bán hoặc đưa tới phủ đệ của các quý nhân hay các quán rượu.

“Nếu không thì sao nó có thể tươi thế được? Y như búp măng.” Hàng rau cười nói.

Tốn nhiều công sức như vậy mới đưa được đến tay thì đương nhiên là không rẻ, thế nhưng Thẩm Thiều Quang vẫn mua không ít, lại hẹn nếu hôm khác còn hương bồ nữa thì cứ đưa tới.

Thứ này bóc ra ăn luôn thì mới tươi ngon. Vu Tam và A Xương dậy từ sáng sớm, buổi trưa cũng chủ yếu là bọn họ loay hoay bận rộn trong bếp nên buổi chiều Thẩm Thiều Quang bảo bọn họ đi nghỉ một lát, tự nàng chuẩn bị đồ ăn bữa tối, nhặt rửa rau, ướp thịt, tiện thể trông chừng lửa trên lò.

A Viên đi tới muốn bóc cùng Thẩm Thiều Quang nhưng bị Thẩm Thiều Quang đuổi đi: “Nóng lắm, ngươi lại không thoải mái, đi nghỉ một chút đi.”

A Viên đứng lên chạy một vòng, sau đó lại trở về: “Cứ để ta giúp cô nương bóc rau đi, dù sao cũng đói bụng, đi nghỉ cũng không thoải mái, chi bằng làm chút việc phân tán lực chú ý.”

Thẩm Thiều Quang bất đắc dĩ bật cười.

Tối hôm qua A Viên ăn không ít thịt dê nướng, còn ăn thêm ngọc tiêm diện, trước lúc đi ngủ lại ăn thêm hai quả đào to, nếu không phải Thẩm Thiều Quang can ngăn thì có khi còn ăn thêm một quả nữa, ban đêm lại ham lạnh, để bụng trần nằm ngủ, tới canh năm thì mò dậy chạy đi nhà xí mấy chuyến. Sáng sớm dạ dày vẫn còn khó chịu.

Thẩm Thiều Quang dẫn nàng ta tới lang trung trong phường, lang trung bắt mạch xong lại nhìn đầu lưỡi, kê thuốc, còn dặn: “Mấy ngày tới ăn uống phải thanh đạm một chút, chịu đói mấy hôm đi.” Khiến Thẩm Thiều Quang chợt nhớ tới Vương thái y xem bệnh cho Xảo Thư trong Hồng lâu mộng.

Nghe xong lời dặn dò này của lang trung, A Viên lập tức ủ rũ mặt mày ngay tại chỗ.

Nàng ta không thích giảm béo thì Thẩm Thiều Quang không ép buộc, nhưng bây giờ bị bệnh thì nhất định phải giám sát thật.

Buổi trưa nàng nấu cháo riêng cho A Viên, nghĩ tới khẩu vị của nàng ta, lại tốt bụng làm thêm một bát canh trứng nho nhỏ, những thứ này bỏ vào cái dạ dày như thể không có đáy của A Viên thì chẳng khác nào muối bỏ biển.

A Viên u oán nhìn Vu Tam ăn thịt dê rắc thì là, Vu Tam lại càng nhai ngon lành hơn; A Viên nhìn A Xương kẹp thịt vào trong bánh chưng, còn tưới thêm cả nước canh đậm đặc, A Xương lặng lẽ xoay người đi chừa cho A Viên một cái bóng lưng.

A Viên: “…” Vẫn là cô nương tốt bụng nhất!

Đồ ăn của Thẩm Thiều Quang là hương bồ xào thịt, trứng gà dưa chuột, cùng với một bát cháo nhỏ như của A Viên.

Cho dù chỉ là hương bồ xào với mấy miếng thịt nho nhỏ thì A Viên cũng phát thèm, nhìn Thẩm Thiều Quang với vẻ ước ao, còn thử vươn đũa ra muốn gắp một miếng.

Vu Tam tằng hắng một tiếng.

A Viên oán hận buông đũa xuống.

Thẩm Thiều Quang đành phải an ủi nàng ta: “Bây giờ mà ngươi không lo dưỡng cho tốt thì sau này cứ ăn một bữa sẽ lại đau một bữa, làm hỏng dạ dày thật rồi có muốn ăn đồ mặn cũng không ăn được nữa, cố gắng nhịn vài hôm đi. Chờ tới khi khỏi rồi thì sẽ cho ngươi ăn đùi dê nướng.”

A Viên bẹp môi đồng ý.

Bữa chính đã chẳng được ăn no, bây giờ giữa buổi chiều lại càng đói hơn. Vừa giúp cô nương rửa sạch hương bồ đã bóc xong để dùng cho bữa tối, A Viên vừa hít hà mùi canh sữa trên lò: “Món canh sữa hương bồ cô nương làm lúc trưa khách nào ăn cũng khen cả, nói là nhìn qua thì có vẻ thanh đạm, không ngờ là lại ngon vậy.”

Thẩm Thiều Quang hơi đắc ý, quả thật món canh sữa từ hương bồ lúc trưa khá thành công, nước canh trắng như sữa, hương bồ màu xanh nhạt, thêm một chút thịt khô, trông rất đẹp mắt, nước canh lại thơm, hương bồ thì non ngọt, ăn rất ngon miệng – chỉ là buổi trưa hơi nóng, tối nay nhất định phải uống hai bát.

A Viên cũng đắc ý: “Bọn họ đâu có biết canh sữa này là hầm từ xương lợn, gà già vịt già đâu chứ? Mấy thứ này đừng nói là nấu với hương bồ, cho dù có nấu với cỏ cũng thơm! Nếu thật chỉ là nước sôi nấu với rau cho thêm tí bột súng thì bọn họ lại chả đòi lật đĩa lên ấy.”

Lâm Yến vừa mới bước vào cửa thì nghe thấy người tỳ nữ ngồi trong bếp nói như vậy, không khỏi mỉm cười, đúng là chủ nào hầu nấy.

Thẩm Thiều Quang cười nói: “Nước sôi luộc rau xanh cũng sẽ có người thích – thường đều là các vị quý nhân bình thường quen ăn ngon uống ngọt rồi ngán muốn thay đổi khẩu vị, ví dụ như Lâm thiếu doãn thường hay tới đấy. Có thể thấy đây chính là “vị lớn ắt nhạt”…” Mới thật là kĩ tính.

Nghĩ tới chuyện người có tiền muốn đổi khẩu vị, Thẩm Thiều Quang đột nhiên nhớ tới bộ phim điện ảnh “Phe Giáp phe Ất”, trong phim có một kẻ giàu có bị đưa đến một cái thôn nhỏ trong núi ăn hết sạch gà trong thôn bọn họ, nếu như cũng đưa Lâm thiếu doãn đi thì không biết hắn có còn duy trì được phong độ ngời ngời như bây giờ nữa không?

* Phe Giáp phe Ất (hay Bên A bên B, The Dream Factory) là một bộ hài kịch do Phùng Tiểu Cương đạo diễn, được sản xuất nhân dịp Tết nguyên đán năm 1997.

Đang tưởng tượng cảnh Lâm thiếu doãn đầu xù tóc rối, khoác cái áo bông đen nằm nhoài ngoài cửa thôn chờ cứu viện thì nghe thấy tiếng ho nhẹ bên ngoài.

Thẩm Thiều Quang trừng mắt, không phải chứ? Khéo như thế sao? Có thể thấy là không thể nói xấu sau lưng người khác được…

Vén tấm mành ở phòng bếp lên đi ra, Thẩm Thiều Quang nở nụ cười nịnh nọt với Lâm Yến: “Chào Lâm lang quân, Lâm lang quân vào bên trong ngồi đi, Lâm lang quân vẫn uống cốc nước ô mai ướp nước giếng giải khát trước chứ?”

Mặt Lâm Yến nghiêm nghị, khóe mắt lại lộ ra ý cười: “Được, làm phiền cô nương rồi.”

Thẩm Thiều Quang híp mắt cười nói: “Không phiền.”

A Viên đã chạy ra hậu viện lấy nước ô mai, không cần Thẩm Thiều Quang phải mất công nữa, Thẩm Thiều Quang lại theo thường lệ hỏi Lâm thiếu doãn muốn ăn món gì.

“Cứ lấy món rau luộc vị lớn ắt nhạt mà cô nương nói đi.”

Thẩm Thiều Quang: “… Được!”

Thẩm Thiều Quang tự biết đuối lý, bị người ta chế giễu một chút thì cứ để người ta giễu, đang định quay người rời đi thì lại nghe thấy hắn nói: “Vừa rồi ở trong bếp hình như cô nương còn có ý chưa nói hết, “vị lớn ắt nhạt” này thì thế nào?”

Thẩm Thiều Quang quay đầu lại nhìn hắn, Lâm thiếu doãn mặt mày cong cong, như cười như không, không còn là dáng vẻ trang nghiêm thận trọng như thường ngày mà lại có nét giống vị bằng hữu họ Bùi của hắn. Vẻ mặt thế này, thêm câu hỏi như vậy, rõ ràng là đang chọc ghẹo.

Trong lòng Thẩm Thiều Quang hơi hoảng, khuôn mặt hơi nóng lên, thì ra Lâm thiếu doãn cũng có thể bày ra dáng vẻ phong lưu thế này, thật đúng là.. tài nhân kỹ lưỡng, thành bất khả trắc*!

* Trong “Điền từ tạp thuyết” Thẩm Khiêm đánh giá Giá Hiên là “Từ nhân kỹ lưỡng, thật bất khả trắc”, từ đây chỉnh sửa một vài từ. (Đột nhiên phát hiện ra cha của nữ chính trùng tên với vị học giả này.) [tác giả] “Lưỡng” ở đây có nghĩa là hai, ý nói cả hai mặt đều thành thạo.

Thẩm Thiều Quang ổn định lại một chút, chậm rãi thở ra một hơi, ám muội tới cỡ này thì thật sự không thể cứ để mặc cho tiếp tục được nữa.

Thẩm Thiều Quang không đi vào bếp mà quay lại ngồi ở đối diện Lâm thiếu doãn, mỉm cười nói: “Mấy lời vừa rồi ở trong bếp chẳng qua là đùa giỡn với tiểu tỳ nữ mà thôi, đậm có cái tốt của đậm, nhạt có cái vị của nhạt, cũng không cần quá để ý, mong lang quân chớ để bụng.”

Mặt Lâm Yến trở nên nghiêm túc trở lại, yên lặng nhìn nàng.

“Câu “vị lớn ắt nhạt” này cũng không có ý gì, nhưng ta lại có cái khác muốn thỉnh giáo. Lúc còn ở Dịch Đình từng đọc được trong “Thi” có câu “Xa xỉ không có điểm đầu, tươi mới lại có điểm cuối”, sau lại đọc được trong tác phẩm của một vị Hồng tiên sinh rằng “Khiến người thích một chút lúc ban đầu, chi bằng khiến người ta ghét lâu dài*”. Ta cảm thấy những lời này rất có đạo lý. Không biết Lâm lang quân nghĩ thế nào?”

* Trích “Thái căn đàm” (Bàn về rễ rau) [tác giả]. Đây là tập sách do đạo sĩ Hồng Ứng Minh (pháp hiệu Hoàn Sơ đạo nhân) biên soạn vào khoảng niên hiệu Vạn Lịch (1573 – 1620) đời Minh Thần Tông, tổng kết những kinh nghiệm đối nhân xử thế của người xưa. Tác giả đã thu lượm các câu cách ngôn trong các bộ kinh điển của Nho giáo, Phật giáo và Đạo giáo, biên soạn thành sách, chia làm 3 chương, bao gồm 97 mục.

Lâm Yến nhìn Thẩm Thiều Quang một lát, Thẩm Thiều Quang vẫn duy trì dáng vẻ mỉm cười trầm tĩnh của mình.

Lâm Yến nhếch miệng: “Nghe cách nói của cô nương có đôi phần ý tứ của Lão Trang, nhưng theo cách hành sự của lệnh tôn thì lại là một vị nho giả.”

* Tức Lão Tử và Trang Tử, hai đại diện cho Đạo giáo, một trong ba giáo lý tồn tại song song và ảnh hưởng tới đời sống thời cổ đại gồm Đạo giáo, Nho giáo, Phật giáo.

Thẩm Thiều Quang nhướng mày.

“Mỗ cũng là con cháu nho gia. Con cháu nho gia thì lại cho rằng “Chí ở đạo, sống ở đức, dựa vào nhân”, tận tâm tận lực mà theo đuổi là được.” Vẻ mặt Lâm Yến rất kiên định, ánh mắt nhìn thẳng vào Thẩm Thiều Quang không hề tránh né.

Thẩm Thiều Quang đột nhiên không biết đáp lại thế nào, thì ra lòng nhiệt tình của nho gia các ngươi vận dụng vào cuộc sống lại biểu hiện ở các phương diện…

“Trong “Lễ Ký” có chép: “Nho có bữa tiệc ngon để chờ sính, sớm đêm học tập để chờ hỏi, ôm lòng trung tín để chờ nêu, nỗ lực thực hiện để chờ lấy”.” Lâm Yến liếm môi dưới, rũ mắt, nhẹ giọng nói: “Lời này mỗ nói ra có phần tự đại, nhưng vẫn mong cô nương suy xét kĩ càng một chút.”

Thẩm Thiều Quang: “…”

Nhà nho có bữa tiệc trân bảo chờ được thăm viếng; nỗ lực học tập, chờ được vấn hỏi; lòng mang trung tín, chờ được tiến cử; dốc hết sức mình, chờ được tuyển chọn. Hắn thế này là tự so mình thành “trân bảo”, chờ bị ta “sính lấy” sao?

Chả có lẽ đây là lời bày tỏ của ngươi?

Người đời Đường các ngươi đều bày tỏ thế này cả sao? Giống như đàm đạo?

Thẩm Thiều Quang cười giả lả: “Nhà nho các ngươi cũng thật là, cần gì “biết không thể lại vẫn làm” chứ?”

“Không làm thì sao biết là không thể? Biết đâu lại rất “có thể” thì sao…” Phần sau giọng nói hơi nhẹ, chữ “sao” cuối cùng lại như thể chứa đầy ám muội, rõ ràng là một câu nói nghiêm chỉnh như vậy mà lại nói ra vài phần du dương cợt nhả. Lâm Yến hơi mất tự nhiên bưng cốc nước lên uống một hớp, trong tay áo lộ ra một đoạn dây trường mệnh.

Nhìn cái cằm của hắn và yết hầu lăn lên lộn xuống lúc hắn uống nước, tâm tư của Thẩm Thiều Quang hoàn toàn bị câu “Biết đâu lại rất “có thể” thì sao” kéo đi hơi xa, sao mà “có thể” chứ? Đổ thư bát trà, uyên trướng triền miên, sinh con dưỡng cái, bạc đầu giai lão sao?

* “Đổ thư bát trà” (tranh tài từ sách, làm vẩy nước trà) là điển cố bắt nguồn từ vợ chồng Lý Thanh Chiếu và Triệu Minh Thành. Hai vợ chồng đều thích đọc sách, trí nhớ của Lý Thanh Chiếu lại rất tốt, cho nên mỗi ngày ăn xong cùng nhau pha trà hai người đều dùng cách tranh tài để quyết định thứ tự uống trà, một người hỏi xem điển cố nào đó là xuất từ dòng mấy trang mấy quyển nào, nếu đối phương đáp đúng thì được uống trước, nhưng người thắng thường vì quá vui mà đổ nước trà ra người. Về sau điển cố này được dùng với ý chỉ cuộc sống vợ chồng thuận hòa, tâm đầu ý hợp.

Thẩm Thiều Quang nuốt nước miếng, cười khan một tiếng: “Có thể thấy là Nho gia Đạo gia đúng là không giống nhau, không giống nhau… Ta đi làm canh rau cho lang quân trước đã.”

Lâm Yến nhìn theo dáng vẻ hoang mang bỏ chạy của nàng, không nhịn được cười.

Thẩm Thiều Quang vào bếp, cắt hương bồ ra thành khúc, lại cắt mấy miếng thịt khô, mấy lát gừng, cho vào nồi một ít dầu rồi cho gừng và thịt khô vào đảo qua, vừa đảo đồ ăn vừa rối rắm trong lòng, không ngờ rằng Lâm thiếu doãn lại có đôi phần phong thái tổng tài bá đạo, không chịu tiếp nhận lời từ chối mà còn làm rõ quan hệ… Vị con cháu nho gia này hơi khó chơi đây.

A Viên lại tới chọc thêm phiền cho nàng: “Cô nương biết nhiều thật đấy, lại còn có thể bàn luận học vấn với thám hoa lang.”

Thẩm Thiều Quang cười gượng gạo: “… Không biết vẫn hơn, không biết vẫn hơn.”

A Viên vô cùng ngạc nhiên: “Thế này là sao? Không phải cô nương vẫn thường thúc giục ta học hỏi thêm sao?”

Thẩm Thiều Quang nói đầy ẩn ý: “Biết chữ là được rồi, có vài thứ của nho gia nếu không biết cũng không sao.”

A Viên lại càng thêm không hiểu, thế nhưng thấy cô nương như có điều suy nghĩ không muốn nói nhiều nên A Viên cũng không hỏi nữa.

Thẩm Thiều Quang múc canh sữa hương bồ đã nấu xong cho vào bát, lại tùy tiện lấy mấy cái bánh chưng và bánh ngọt có sẵn, bảo A Viên bưng ra.

Lâm Yến nhìn A Viên, A Viên giải thích thay Thẩm Thiều Quang: “Cô nương nhà ta còn đang nghiền ngẫm chuyện “nho gia” cơ.”

Thẩm Thiều Quang trong bếp: “…”

Lâm Yến bật cười.

 

 

 

Đăng trong Tiệm cơm nhỏ thành Trường An - Bánh Anh Đào

Tiệm cơm – Chương 63

Chương 63: Tấm chiếu trúc kỳ lạ

Mấy hôm nay nhiệt độ tăng cao, ban ngày thì còn tạm chịu đựng được, nhưng ban đêm không có lấy một ngọn gió, bên ngoài tiếng ve râm ran lúc dài lúc ngắn, nghe còn ầm ĩ hơn cả ban ngày, Thẩm Thiều Quang thành công mất ngủ, tới canh ba mới miễn cưỡng chợp mắt được, sáng sớm lại tỉnh giấc, gối ướt đẫm, lưng dính vào chiếu, cả người dinh dính, ôi trời – sao mà mùa hè năm nay khó chịu như vậy chứ?

Đứng dậy tu một cốc nước sôi nguội mới dễ chịu hơn một chút. Tính ra cũng lạ thật, trước kia còn ở Dịch Đình, cả đám người chen chung một căn phòng, qua bao nhiêu ngày rét căm hay nóng nực như vậy vẫn ngả đầu xuống gối là ngủ ngay, năm ngoái ở trong am Quang Minh qua mấy ngày trời sauna cũng không bị mất ngủ, thế mà năm nay ở phòng mình, cửa sổ dùng lụa mỏng, mặc váy ngủ đai đeo, sao lại không ngủ ngon nổi?

Thẩm Thiều Quang cười giễu bản thân một tiếng, có lẽ đây chính là cái gọi là “ngủ trong đau khổ, tỉnh trong yên vui” đây.

A Viên vẫn còn đang ngủ, Thẩm Thiều Quang không gọi nàng ta dậy, ôm chiếu, vỏ gối và đồ ngủ đã thay đi ra giếng giặt. Chiếu và vỏ gối giặt xong thì phơi ngay trong sân, đồ ngủ thì chỉ có thể mang về trong phòng hong khô – dù sao cũng phải kiêng dè tới quan niệm của thời đại.

Sau đó lại đánh răng, rửa mặt tiện thể gội đầu, Thẩm Thiều Quang cảm giác mình rốt cuộc cũng nhẹ nhàng khoan khoái rồi, rũ tóc đi ra quán xem Vu Tam làm món gì cho bữa sáng.

Thấy quầng thâm dưới mắt Thẩm Thiều Quang, Vu Tam liền cau mày: “Ban đêm đi làm trộm đấy à?”

Thẩm Thiều Quang bày ra vẻ mặt vô tội, ta cũng đâu có muốn, ngươi cho rằng muốn làm quốc bảo dễ như vậy sao?

A Viên cũng rửa mặt xong đi ra, A Xương xách tào phớ từ phường đậu phụ về, bánh nướng vừng của Vu Tam cũng vừa xong. Thẩm Thiều Quang vớt trứng gà vừa luộc xong ra, cắt mấy thứ dưa muối thành sợi hoặc thành miếng, Vu Tam lại chuẩn bị thêm tỏi giã, tương thù du, tương vừng, hoa hẹ, rau thơm cho vào trong tào phớ, thế là đã xong bữa sáng của Thẩm Ký.

Món tào phớ này Thẩm Thiều Quang biết nguyên lý nhưng lại không biết làm, nói với nương tử Cầu gia, thử vài lần, quả thật làm ra được thành phẩm siêu tốt.

“Người mua tào phớ không ít đâu.” A Xương nói như thế, lại vui vẻ cười: “Ta tới không cần đợi, Cầu nương tử múc cho ta trước.” Dáng vẻ rất là đắc ý.

Thẩm Thiều Quang mỉm cười, đúng là trên người trẻ con có cái tật chung của toàn loài người, ví dụ như là rất thích đặc quyền, dù chỉ là chút đặc quyền bé cỏn con.

Bản thân Thẩm Thiều Quang thì lắm khuyết điểm hơn, vì vậy yêu cầu đối với người bên cạnh cũng không cao, chỉ cười nói: “Sau này đừng như vậy nữa, người ta đã phải đợi rồi mà.”

A Xương rất nghe lời, cười đáp được.

Thẩm Thiều Quang rưới vào trong tào phớ một ít nước hầm xương, các loại tỏi giã, tương vừng, tương thù du cũng thêm mỗi loại một ít, lại rắc thêm một thìa rau thơm cắt nhỏ, mùi vị rất tươi mới, rất ngon miệng.

Có lẽ là nhờ tào phớ kích thích dạ dày, vốn ban đầu còn không muốn ăn cái gì, bây giờ Thẩm Thiều Quang đã ăn hết một quả trứng gà, ăn xong tào phớ lại thêm một chiếc bánh nướng vừng công chúa Vu Tam mới nướng. Bánh con con chỉ lớn bằng lòng bàn tay, bên trong bọc tương vừng và muối tiêu, cuộn từng vòng từng vòng, vàng giòn thơm lừng.

Dù sao cũng vẫn còn trẻ, mặc dù mấy ngày ngủ không ngon nhưng ăn xong một bữa sáng ngon lành đầy ắp thì lại có tinh thần ngay. Thẩm Thiều Quang cùng A Viên A Xương múc nước giếng, lau bàn quét dọn quán, kiểm tra đồ do hàng rau hàng thịt đưa đến, giúp đỡ công chúa Vu Tam chuẩn bị các loại nguyên liệu nấu ăn, bận một lèo hẳn hơn một canh giờ.

Giữa buổi sáng thì hàng cá đến, lần này không mang theo tri liễu hầu nhưng lại mang theo một con ba ba nặng hơn hai cân.

Chà chà, đây là một thứ mới mẻ đây.

Người bán cá cũng rất đắc ý: “Nó ở ngay dưới cây liễu, lúc đầu ta còn không nhìn rõ là thứ gì, nó hơi động đậy ta mới nhìn ra, thì ra là cái thứ giảo hoạt này! Nó còn đang định chạy thì bị cái sọt của ta tóm lại. May mà ở ven sông, nước cạn, lại bị rễ cây ngăn trở, nếu ở chỗ nước sâu thì chắc chắn là không bắt được nó đâu.”

Làm ba ba có rất nhiều phương pháp, có nấu canh, có kho, xào chung với thịt gà, hầm chung với chân giò lợn, hoặc là kết hợp với mỡ dê, lòng đỏ trứng vịt muối rồi chưng lên như ở trong cung, thậm chí là tách bụng ra nhét các loại nhân nấm thịt vào, cách làm ba ba tàn ác vô nhân đạo nhất mà Thẩm Thiều Quang từng nghe tới là đặt con ba ba trên miếng sắt đang được đun nóng, để cho nó bò, lại không ngừng cho nó uống các loại nước gia vị, cứ chậm rãi nướng, nghe nói nướng như vậy thì con ba ba sẽ có mùi thơm không gì sánh được, Thẩm Thiều Quang lại cảm thấy người có thể nghĩ ra phương pháp này chắc chắn là ác quan đội lốt đầu bếp, hoặc cũng có thể là đầu bếp đội lốt ác quan.

Thẩm Thiều Quang là người bình thường, chọn cách hầm chung với thịt gà. Hầm cũng chọn cách hầm thông thường nhất: trong nồi bỏ dầu, hành gừng để tạo mùi, bỏ thịt gà vào xào, thêm một chút rượu vàng, sau đó cho nước vào đun với lửa lớn, đến khi sôi thì vớt bọt bỏ đi, đợi đến khi nước canh chuyển sang màu trắng sữa thì cho ba ba cắt khối vào nồi, lại thả túi vải đựng các loại gia vị như hoa tiêu hồ tiêu, sau đó hầm lửa nhỏ là được.

Buổi trưa thì chắc chắn là không kịp nữa, mà cũng chỉ có một con nho nhỏ, cũng không hợp đãi khách, vì vậy nên để buổi chiều rồi hầm, buổi tối không nóng như ban ngày, vừa khéo hợp để uống canh ăn thịt.

Nhưng Thẩm Thiều Quang cũng chỉ nói nói thế thôi, người làm thật thì vẫn là Vu Tam. Cái khác thì chưa nói, riêng khoản giết ba ba thì Thẩm Thiều Quang chắc chắn là không làm được.

Trước kia A Viên chưa từng ăn ba ba, nghe mùi thơm từ trong bếp bay ra thì đứng ngồi không yên, thỉnh thoảng lại đi ngó một cái.

Giữa chiều không có khách, Vu Tam và A Xương về hậu viện nghỉ ngơi, Thẩm Thiều Quang vốn định chợp mắt một lát nhưng lại bị A Viên đi qua đi lại như vậy làm cho không ngủ được.

Thẩm Thiều Quang phất tay lên gọi nàng ta, A Viên chạy tới.

Thẩm Thiều Quang biếng nhác, một tay chống đầu, một tay chậm rãi phe phẩy cây quạt cho cả hai người: “Chờ sau này chúng ta có tiền rồi sẽ xây một tòa nhà thật to ở cạnh Vị Thủy, mỗi ngày ta sẽ vác cần câu xách giỏ cá ra sông Vị Hà thả câu. Nghe nói ba ba thích nhất là đồ ăn mặn, chúng ta lấy chút mề gà, gan heo làm mồi, chắc chắn có thể ngẫu nhiên câu được một con, đến khi đó đảm bảo cho ngươi ăn thoải mái.”

A Viên cười hì hì: “Lần trước cô nương còn nói tới núi Chung Nam mua biệt thự, tới lúc đó sẽ bắt gà rừng trên núi cho ta ăn…”

Thẩm Thiều Quang cũng cười, chỉ là mơ tưởng nhiều hơn một chút thôi mà: “Biệt thự trên núi Chung Nam cũng cần, ở cạnh Vị Thủy cũng cần. Trời này trong núi rất mát, chắc chắn không nóng tới nỗi ngủ không ngon giấc như ở trong thành. Đồ ăn dân dã cũng nhiều, chúng ta sẽ lấy que củi bắc thành giá rồi nướng thịt ngay trong sân, thịt dê, cánh gà, thịt nai, thịt thỏ…”

Đang mặc sức tưởng tượng thì nghe thấy tiếng vén mành, là Lâm thiếu doãn.

Thẩm Thiều Quang đứng dậy, thuận miệng chào hỏi: “Đã mấy ngày không thấy Lâm lang quân rồi, lang quân vẫn tốt chứ?”

Lâm Yến hơi nhíu mày nhìn nàng một cái, lướt qua quầng thâm nhàn nhạt dưới mắt nàng, mấp máy môi muốn nói cái gì đó nhưng rồi lại thôi, yên lặng một lát mới nói: “Rất tốt, đa tạ.”

Cái tật ghét giàu của Thẩm Thiều Quang lại nổi lên quấy phá, trong bụng oán thầm: “Đương nhiên là tốt rồi, nhà cao cửa rộng, trong phòng bày chậu băng, có khi còn có tỳ nữ xinh đẹp quạt cho, nếu là ta thì ta cũng tốt… Cẩu nhà giàu!”

Ngoài miệng lại cười mời hắn ngồi, hỏi hôm nay ăn món gì, lại bảo A Viên bưng nước ướp lạnh lên..

Vốn cho rằng hắn sẽ nói “Cô nương cứ tùy ý đưa lên là được”, nào ngờ lại nghe hắn nói: “Có sẵn cái gì thì bưng cái đó lên là được rồi, chớ động thêm lửa.”

Có thể tránh không phải chui vào bếp đương nhiên là tốt, Thẩm Thiều Quang vui vẻ đáp được, đang định xoay người đi thì mới chợt hiểu ra, chẳng lẽ thế này là… đau lòng mình?

Thẩm Thiều Quang nhướng mày, nhìn Lâm Yến như cười như không.

Cho rằng với tính tình của hắn thì ắt sẽ giải thích một câu “Trời nóng, không muốn ăn gì” hay gì đó tương tự, nhưng không ngờ là vị Lâm thiếu doãn này lại chỉ liếc mắt nhìn nàng một cái, sau đó bưng cốc nước ướp lạnh lên uống như chưa có chuyện gì.

Thẩm Thiều Quang: “…”

Thẩm Thiều Quang bĩu môi, thôi bỏ đi, quay người đi vào bếp.

Lâm Yến lại nhếch khóe môi lên.

Vốn định bưng lên cho hắn vài đĩa bánh cho xong, thấy ba ba đã hầm đủ độ lửa rồi, Thẩm Thiều Quang lại đổi ý, dù sao cũng không thể phụ lòng số bạc người ta cho mình.

Đã có mì nhào sẵn, Thẩm Thiều Quang lấy một miếng, cắt thành sợi mì hình lá hẹ cho vào nước sôi nấu lên, múc một bát canh gà ba ba, bỏ sợi mì đã nấu xong vào, rắc một nhúm hành băm, bỏ muối và gia vị, sau đó đặt lên khay bưng ra ngoài.

A Viên khịt khịt mũi, không phải cô nương đã nói cái này để cho nhà mình ăn sao?

Bát bánh bột canh gà ba ba thơm ngát nóng hổi này khiến Lâm Yến chảy mồ hôi khắp người, cổ áo cũng ướt đẫm mồ hôi.

Không dễ gì được thấy dáng vẻ chật vật như vậy của hắn, Thẩm Thiều Quang híp mắt cười hỏi: “Lang quân ăn ngon chứ?”

Chống lại ánh mắt ranh mãnh của Thẩm Thiều Quang, Lâm Yến hơi bất đắc dĩ, lại nhịn không được cười, đáp: “Rất ngon.”

Thẩm Thiều Quang đứng nhìn xuống Lâm thiếu doãn ăn bánh bột, năm đó mỹ nam Hà Yến bị nghi là thoa phấn, ngày hè ăn bánh canh ra nhiều mồ hôi, “lấy áo đỏ tự lau, màu da càng sáng” chắc chắn cũng là như thế này nhỉ? Chậc! Chậc!

* Hà Yến là là cháu Đại tướng quân Hà Tiến cuối thời Đông Hán, con nuôi Tào Tháo, là nhà huyền học thời Tam quốc, nhà sáng lập Quý Vô phái của huyền học thời Ngụy Tấn. Hà Yến nổi danh là mỹ nam tử đương thời, còn gọi Hà lang phấn hay Phá phấn Hà lang.

Mùa hè mặc mỏng, người lại đổ mồ hôi, thân hình của hắn lại càng rõ ràng hơn, Thẩm Thiều Quang chả thèm để tâm tới thể diện liếc mắt quan sát hắn, cảm thấy thỏa lòng thỏa dạ.

Cả người đổ mồ hôi suy cho cùng là thất lễ, lại thấy Thẩm cô nương có vẻ không có tinh thần lắm, muốn cho nàng nghỉ ngơi một lát, Lâm Yến ăn xong bánh bột rồi thì cũng chẳng ở lại lâu.

Về tới nhà, đổi y phục xong, gọi Lưu Thường tới: “Chuyện ta bảo ngươi tìm một con ngựa tốt tạm thời không cần làm nữa.”

Lưu Thường hơi ngạc nhiên: “Bùi lang không mua căn nhà kia nên không cần tặng lễ an cư nữa sao?”

“Tặng con ngựa ta thường cưỡi cho hắn.”

“Vậy a lang thì sao?” Lưu Thường lại càng ngạc nhiên hơn, đó là con ngựa mà a lang rất yêu quý.

“Trong nhà đâu phải không còn con ngựa nào khác, con Táo Đỏ cũng rất tốt.”

Lưu Thường: “…”

“Ngươi hỏi thăm giúp ta xem ở Nam Sơn có bán mảnh đất nào hay là tòa nhà xây sẵn nào không, để giải nhiệt ấy.”

Lưu Thường đã hiểu ra, mặc dù bổng lộc của a lang nhiều thật nhưng tiêu dùng cũng nhiều, nếu mua ngựa tốt thì e là không đủ mua nhà nữa, nhưng mà tại sao a lang lại đột nhiên nghĩ tới chuyện mua nhà ở núi Chung Nam? Cho thái phu nhân sao? Thái phu nhân đã có tuổi, đúng là cũng có chuyện không chịu được nóng thật. Nhưng mà a lang có được bao nhiêu thời gian để ở cùng thái phu nhân đâu chứ?

“Còn nữa,” Lâm Yến liếm liếm môi: “Có một tấm chiếu trúc, ngươi để một người lạ mặt cầm tới rao hàng trước Thẩm Ký.”

Lưu Thường: “…”

Lưu Thường lập tức hiểu ra, á à, a lang ấy à, nam nhân ấy à…

Ngày hôm sau, Thẩm Thiều Quang – người vẫn ngủ không ngon giấc – gặp được “tiểu thương” bán chiếu trúc này.

Thẩm Thiều Quang không phải người không biết hàng: “Đây là chiếu trúc Lãng Châu ở Sơn Nam Đạo đúng không.”

Người tiểu thương khá lễ phép, cũng rất thân thiện: “Cô nương nói rất chuẩn.”

Chiếu trúc Lãng Châu chế tác tinh xảo, nhẵn bóng trơn mịn như ngọc, đồn rằng đều được làm từ trúc trong núi âm, mùa hè trải ra nằm có thể mát lạnh không mồ hôi, hằng năm đều được đưa vào kinh làm cống phẩm, ở Đông Thị cũng có bán, rất đắt.

Người tiểu thương cười nói: “Không giấu gì cô nương, thứ này là do ta tình cờ cứu một vị quý nhân rồi vị quý nhân đó tặng cho. Nhà mỗ nghèo khó, nào trải được thứ này? Đưa ra tiệm cầm đồ cũng không được mấy đồng tiền, cho nên mang đi bán.”

Thẩm Thiều Quang vẫn cảm thấy là lạ, chẳng lẽ là đồ ăn trộm?

Không thể ham mối lợi nhỏ được, Thẩm Thiều Quang sờ sờ tấm chiếu trúc kia, tốt thật đấy, chờ bà đây có tiền sẽ mua một tấm, không, mua bốn tấm luôn, cho mỗi người trong nhà một tấm – giấc mơ của Thẩm Thiều Quang càng lúc càng lớn.

“Tiểu thương” đi loanh quanh một vòng, ủ rũ cúi đầu về Lâm trạch, bẩm báo lại với Lưu Thường. Lưu Thường cũng hết cách, chuyện thế này chỉ có thể làm một lần, không thể nào làm lần nữa, không “bán” đi được cũng không thể thử nữa, lấy tay gõ tên nô bộc làm không xong việc này một cái rồi tự tới trước mặt a lang lãnh phạt.

Nghe hắn kể lại từ đầu tới cuối, Lâm Yến bất đắc dĩ bật cười, A Tề không vào làm quan trong bộ Hình và Đại Lý Tự thật là lãng phí…

 

Đăng trong Tiệm cơm nhỏ thành Trường An - Bánh Anh Đào

Tiệm cơm – Chương 62

Chương 62: Tri liễu hầu nhi chiên dầu

Qua Đoan Ngọ thì cũng là lúc mùa hè nóng bức chính thức bắt đầu. Mặt trời to tròn chói lóa, nền đất bỏng rát phủ một lớp bụi cũng nóng hổi, chó trốn vào chỗ bóng râm của tường đào hố nằm ủ rũ, ngay cả đám gà con cũng nề nếp hơn không ít, không còn tìm đủ cách nhảy qua hàng rào đi gây họa cho rau ria trong vườn nữa.

Trời thế này thì chuyện gì cũng dẹp hết, Thẩm Thiều Quang cả ngày ru rú trong quán không ra ngoài, sống tạm qua ngày nhờ vào đồ uống ngâm nước giếng sau hậu viện và hoa quả. Bữa sáng và bữa chiều thì còn tạm, bữa trưa thì chỉ ăn vài đũa cho có, chả khác gì con mèo.

Cứ thấy Thẩm Thiều Quang ăn bữa trưa như vậy thì Vu Tam lại cau mày. Thẩm Thiều Quang cười lấy lòng, gắng ăn vài miếng nữa. Nàng biết, giữa ngày hè nóng bức đầu bếp chui vào trong bếp vất vả lắm mới làm ra được vài món, người ta lại không thích ăn, đây là chuyện không thể nào chịu đựng được đối với một đầu bếp!

A Viên, A Xương thì cả năm bốn mùa khẩu vị đều tốt, cũng không kiêng kỵ đồ mặn. Trời nắng nóng thế này mà giữa buổi sáng hay giữa buổi chiều đói bụng, A Viên vẫn có thể ăn vài cái bánh nướng kẹp thịt mã não dằm vụn, hoặc là ăn một lồng ngọc tiêm diện. A Xương cũng giống vậy, bữa phụ của hai người vừa đồng bộ vừa nhất trí.

Từ sau khi tới Thẩm Ký, A Xương đã mập hơn không ít, nhưng mà người lại không thấy cao lên; A Viên thì đang đúng độ trổ mã, một năm cao thêm mấy tấc.

Thẩm Thiều Quang quy đổi chiều cao của mình, ước chừng 165 cm, mà A Viên còn cao hơn nàng hơn nửa gang tay, ít nhất cũng phải trên 175, eo cũng càng lúc càng lớn, câu nói của công chúa Vu Tam thật đúng là thành lời tiên tri – A Viên đúng là tháng sáu bảy tám ắt bi thương.

Nhưng mà thực khách lại cảm thấy như vậy rất tốt: “Nhìn người của quý quán thì biết ngay là cơm canh trong quán ngon miệng! Nhìn bọn hắn trổ mã thể diện chưa kìa.”

Thẩm Thiều Quang và Vu Tam – hai người trổ mã không “thể diện” như vậy: “…”

Thẩm Thiều Quang và Vu Tam lại bới móc nhau, một người thấy đối phương cũng ăn đâu có ít, sao lại không thêm được chút thịt nào chứ? Thật đúng là mất hết mặt mũi của đầu bếp! Người kia thì lại chê đối phương ăn còn không bằng một con mèo, miệng lưỡi lại vừa tham vừa kén…

Thẩm Thiều Quang cảm thấy mình thật là oan mất một nửa: Ăn ít đúng là chuyện thật, nhưng mà tham với kén thì không đúng tí nào! Ngươi không thấy ta ngày nào cũng ăn cháo giữ mạng sao.

Cháo bữa sáng và bữa tối của Thẩm Ký là cháo hoa, cháo đậu xanh, cháo hạt sen hoa bách hợp, cháo lá sen, cháo thịt nạc rau xanh… Luân phiên thay đổi đủ kiểu.

Rau dưa ăn kèm thì ngoài các món rau xanh mùa hè ra còn có dưa muối: các loại cải thảo muối, củ cải muối, dưa chuột muối, gừng muối rất quý tộc của công chúa Vu Tam, còn có các loại “ướp muối khắp người” như cá muối cơm rượu chiên, thịt khô xào tương thù du, trứng muối.

Thẩm Thiều Quang không ngại “hiệu ứng Zeno lượng tử”, vẫn cứ thỉnh thoảng lại tới ngắm nghía chân giò muối của nàng, vừa tưởng tượng xem chân giò muối trộn rau dền của Đường Lỗ Tôn tiên sinh ăn với cháo có mùi vị thế nào, vừa bắt chước Vu Tam cầm cây tăm trúc đâm đâm một cái – nhưng mà cũng đâm không ra được cái gì, có thể thấy là từ tiểu thịt tươi trở thành một lão thịt khô mê người là cả một quá trình dài, không thể gấp gáp được.

Thẩm Thiều Quang lại nhớ tới “chân giò hai năm” Lâm thiếu doãn, chắc là hắn cũng hai mươi lăm hai mươi sáu tuổi rồi nhỉ? Theo tuổi tác và tướng mạo mà nói thì vẫn còn rất tươi, nhưng ai bảo người ta có “thiên phú dị bẩm” cơ chứ? Lại có thể dựa vào cái tính gió mưa bất động kia mà rút ngắn thời gian lên men…

Nghĩ tới ánh mắt cứ như thể ẩn giấu ngàn lời muốn nói của hắn dạo gần đây, tới khóe mắt cong cong lúc mỉm cười, tới đôi môi căng mọng sau khi uống canh, còn cả cánh tay và thắt lưng kia nữa, Thẩm Thiều Quang cũng thấy cổ họng hơi khô khan, này này, tiết tháo và nguyên tắc của ta, yên tĩnh nào!

Rốt cuộc Thẩm Thiều Quang cũng đã ăn dưa muối tới ngán, bắt đầu vươn móng vuốt tới các loài vật sống nhỏ bé khác.

Buổi sáng, đại thúc bán cá đưa cá tới, Thẩm Thiều Quang cười hỏi: “Lang quân có thể mang tới cho ta một ít châu chấu và ve không? Ve cần loại mới từ dưới đất bò ra còn chưa thoát xác, ve mà bay rồi thì không thơm không non, ăn không ngon miệng.”

Người bán cá cười nói: “Cô nương là người giàu sang ở trong thành, sao lại nghĩ tới chuyện ăn mấy thứ này? Mấy thứ ngoài đồng này, những năm đói kém mất mùa bọn ta nhờ ăn chúng mới giữ được mạng.”

“Ăn ngon mà, lang quân chỉ cần bắt cho ta một ít là được.” Thẩm Thiều Quang cười nói.

Đừng nói tới người trước lúc xuyên không là một dân thường nhỏ bé, sau khi xuyên không là một nữ nô trong cung rồi thành bà chủ của một quán rượu nhỏ như Thẩm Thiều Quang, ngay cả người giàu sang thật sự của triều đại hiện giờ cũng ăn thứ này, ví dụ như Huyền Tông hoàng đế, tổ tiên của thánh thượng hiện giờ.

Khai Nguyên năm thứ tư xuất hiện nạn châu chấu phá hoại mùa màng, Huyền Tông căm hận lấy châu chấu làm đồ ăn, nói “Ngươi ăn ngũ cốc của bách tính trẫm, cũng như ăn phế phủ của trẫm”, dẫn dắt quan viên bách tính đánh thắng trận chiến với nạn châu chấu.

* Khai Nguyên là niên hiệu của vua Đường Huyền Tông (hay Lý Long Cơ), từ 713 đến 741.

Đương nhiên, bây giờ đã cách Khai Nguyên rất nhiều năm, mà Huyền Tông ăn châu chấu cũng chứa đựng quá nhiều ý nghĩa chính trị, người thực sự vì thèm ăn mà ăn thứ “sâu bọ” này là ông nội của thánh thượng hiện giờ.

Theo người đầu bếp già trong cung kể lại thì vị thánh thượng đó thích nhất là ăn ức ve sầu vàng, hoặc nướng hoặc chưng hoặc chần, sau đó thêm giấm chua, tương, rau thơm và các loại gia vị, cứ tới hạ là ắt phải ăn*. Nghe nói lúc đó có rất nhiều quan to và quý nhân bắt chước theo, còn tiên đế và đương kim thánh thượng thì lại không có tình cảm gì đặc biệt với thứ này.

* Tham khảo từ “Thuật tề dân”. [tác giả]

Thẩm Thiều Quang không biết mấy vị quan to có còn yêu thích thứ này nữa không, để thử hỏi Lâm thiếu doãn xem.

Người bán cá vốn làm nghề nông, từ năm ngoái đưa cá vào thành bán trở thành nhà cung cấp cho Thẩm Ký thì hơn nửa năm nay cuộc sống đã khá giả hơn không ít, thấy cô nương muốn ăn thì đương nhiên chút chuyện lặt vặt này hắn muốn giúp, nhưng cô nương lại nói rõ là muốn mua.

Ngày hôm sau quả nhiên mang tới một hũ ấu trùng ve – ở quê của Thẩm Thiều Quang gọi đây là tri liễu hầu nhi, cùng với hơn chục xâu châu chấu xâu lại bằng nhánh cỏ, nói rằng ve là do đám trẻ con trong nhà đi đào tối hôm qua, còn châu chấu là do hắn mới bắt lúc sáng sớm.

Thẩm Thiều Quang cảm tạ đám trẻ con vất vả, trả thêm tiền, cười nói: “Đa tạ tiểu lang quân trong nhà đã giúp đỡ.” Lại còn tặng thêm một ít bánh hoa tỏ ý cảm tạ.

Người bán cá vui vẻ ra về, Thẩm Thiều Quang thì đi xử lý đám “sâu bọ” này.

Thẩm Thiều Quang không kiên nhẫn được như vị hoàng đế thích ăn ức ve sầu kia, cho nên quyết định dùng cách “chiên dầu” nhanh gọn, mang tất cả đi chiên hết.

Rửa sạch là bước quan trọng nhất, sau đó ngâm với nước muối tiêu, để ráo nước, thế là có thể cho vào nồi chiên.

Chiên cái này cũng không khác gì chiên thịt viên, trước tiên là chiên kĩ bằng lửa nhỏ, tới lúc đã chín kĩ thì vớt ra, chiên với lửa lớn một lần nữa để mùi vị thơm ngon hơn.

Sau đó rắc một ít bột hồ tiêu và thì là, ăn không hoặc nhắm rượu hay kẹp ăn chung với bánh nướng đều ngon cả.

Nhưng mà thứ này, đừng nói là Vu Tam, ngay cả A Viên và A Xương cũng không ăn.

A Viên vốn đã hơi động lòng, nhưng nhìn đám côn trùng giương nanh múa vuốt, râu ria vểnh lên y như còn sống thì cuối cùng vẫn lui bước.

Mặc dù A Viên không ăn nhưng vẫn không quên khen cô nương nhà mình: “Cô nương đúng là to gan!”

Thẩm Thiều Quang: “…”

Thẩm Thiều Quang thì ăn ngon lành – rốt cuộc trưa hôm nay cũng ăn no.

Nhưng không ngờ rằng cảnh này lại bị một vị khách tới sớm bắt gặp, đây là một vị khách quen, chính là vị đề thơ vịnh đĩa xuân “Bạch ngọc bàn thượng thanh ti nộn, phỉ thúy phủ trung luyến nhục hương” kia.

Về sau vị này còn làm thơ khen bánh ngọt, ngọc tiêm diện và lãnh đào của Thẩm Ký, đều viết lên bức tường kia, gần như có thể xem là kiêm chức trưởng bộ phận sáng tạo quảng cáo của Thẩm Ký.

Dù sao vị này cũng là người đọc sách, lúc đó liền so sánh với “Phú ve sầu” của Tào Thực, “Ủy quyết thể vu thiện phu, quy viêm thán nhi tựu phần” để tìm chút lịch sử sâu xa cho cái miệng thòm thèm của Thẩm Thiều Quang.

Nếu đã như thế thì sao Thẩm Thiều Quang lại có thể không chia cho hắn một ít? Lại thêm mấy món nhẹ như dưa chuột xào, gỏi tai lợn, một cốc rượu lục nghị mới cất, thư sinh ăn uống say sưa, say rồi thì vỗ bàn hát, bài hát ấy à, thì phỏng theo “Phú ve sầu” của Tào Thực, làm một bài “Phú ăn châu chấu ve sầu”.

“Phú ăn châu chấu ve sầu” này đã thay đổi sự bi thương trong “Phú ve sầu”, ngợi ca sự thái bình phồn hoa của triều đại, nói những loài gây nên nạn mất mùa đói kém năm đó như ve sầu châu chấu tới bây giờ chỉ là thứ nhắm rượu mà thôi. Mặc dù là nói về ve sầu châu chấu nhưng dùng từ lại thanh lịch tao nhã, kết hợp cả biền ngẫu cả tản văn, hơi có nét giống tiểu phẩm thời Lục triều.

Thẩm Thiều Quang chỉ hận không thể vỗ nát bàn tay, phong cách này, chủ đề này quả thật quá thích hợp để làm quảng cáo. Nếu đổi lại là tràn đầy lòng căm hận như câu “Không người tin cao thượng, ai tỏ lòng thừa thãi?” của Lạc tài tử thì ta cũng chỉ có thể cổ vũ, để hắn say một trận rồi thôi, chứ viết lên tường thì không thể nào – quá không phù hợp với sự hài hòa của xã hội.

Thẩm Thiều Quang xóa bài thơ cũ đi, thư sinh trong lúc say lại múa bút khoe nét chữ như rồng bay phượng múa của mình, đề bài phú này lên tường.

Thẩm Thiều Quang chỉ thấy cảm khái, tiếc là nguồn cung nguyên liệu không đảm bảo, nếu không thì dựa vào bài quảng cáo này có thể kiếm thêm một khoản lời to.

Thẩm Thiều Quang không biết rằng quán rượu nhỏ của mình lại rất có tiềm chất “cẩm lý”, bài phú này sau được Lý tướng công tới ăn cơm đọc được, cũng nhắc tới trong lúc nói chuyện phiếm với hoàng thượng, thế là vị sĩ tử này được Lý tướng công nhận về phủ mình, về sau trở thành hàn lâm học sĩ của hoàng thượng.

Mặc dù hàn lâm ở thời này không cao quý được bằng thời sau nhưng cũng là cận thần của thiên tử, vị sĩ tử này thi nhiều năm không đậu, lại nhờ một bài phú đồ ăn mà bước chân vào con đường làm quan, đúng là cơ duyên ở đời khiến người ta phải thở dài.

Đương nhiên, những chuyện này đều là chuyện về sau.

Trong lúc Thẩm Thiều Quang đang chơi đùa với món tri liễu hầu nhi này thì Lâm Yến đang ở chỗ Tống thị lang bộ Hình.

“Bởi vì Phạm thượng thư của bổn bộ hơi khó nên hồ sơ vụ án Thẩm Khiêm mà đợt trước An Nhiên nhờ ta tìm, tới bây giờ mới lấy được.” Tống thị lang cười đẩy một cuộn giấy tờ trên bàn tới.

Lâm Yến gật đầu, trịnh trọng nói tạ ơn.

Tống thị lang cười nói: “Cũng chỉ là bản sao thôi, bản gốc thì không cách nào mang ra được.”

“Yến hiểu được, thứ này đã không dễ dàng rồi.”

Những hồ sơ về các vụ án lớn được niêm phong cất vào kho như thế này đều được cất ở ngăn hồ sơ riêng, quy định ban đầu là nếu không có chữ ký của tất cả các bộ phận liên quan thì không được cho mượn.

Nhưng trên thực tế thì để tránh mối phiền toái như vậy đều chỉ yêu cầu người mượn đọc ký tên, thị lang bộ Hình xét duyệt, thượng thư phê chuẩn là có thể đọc ở bộ Hình – Tống thị lang lại vận dụng một chút đặc quyền, cho người sao chép cho Lâm Yến một phần.

“Đáng để An Nhiên phí nhiều công sức giúp đỡ tra hồ sơ cũ như vậy thì chắc hẳn vị hậu bối Thẩm thị này rất xuất sắc. Nếu hắn tới kinh thành thì An Nhiên nhất định phải giới thiệu với ta đấy.” Tống thị lang cười nói.

Lâm Yến mỉm cười: “Được.”

Trước đây lúc Lâm Yến nhờ Tống thị lang giúp đỡ thì lấy cớ là một người cháu của Thẩm Khiêm muốn biết chuyện cũ trước kia, nhờ hắn điều tra, đương nhiên người này là bịa ra không có thật, nhưng bây giờ Lâm Yến đột nhiên nghĩ tới một tầng nghĩa khác.

Tống thị lang và Lâm Yến bắt đầu làm quan gần như cùng thời điểm, lúc Lâm Yến chạy vạy khắp nơi vì chuyện của Thôi thượng thư thì Tống thị lang cũng có biết, lúc đó đã cảm thấy người này có thể kết làm bằng hữu, dạo này tra lại bản án cũ của Thẩm Khiêm thì cũng hơi cảm khái với chuyện của vị Thẩm công này, lại biết hắn cũng không lưu lại dòng chính dòng thứ nào, người muốn tra lại bản án cũ là con cháu Thẩm thị, cũng chỉ là dựa vào nghĩa khí. Thảo nào lại nói “phượng tụ theo loài, vật chia theo loại”, đều là người trọng nghĩa khinh lợi.

Chỉ là nghĩa khí thế này có đôi lúc cũng phải trả một cái giá rất lớn: “Vị Thẩm công này và con trai đã chết, vợ và con gái vào Dịch Đình, quý nữ nhà quyền quý như vậy e là…”

Nói đến đây, Tống thị lang đột nhiên ngậm miệng, nhớ tới vị hôn thê của Lâm Yến trong lời đồn, không khỏi ngượng ngùng, uống một ngụm trà để che giấu.

Lâm Yến cũng uống một hớp trà, ánh mắt trở nên ấm áp, A Tề sống rất tốt, xán lạn không kém gì cảnh xuân tháng ba, nhưng nàng đáng được sống tốt hơn thế nữa, nếu ngày nào đó chuyện Thẩm công được làm rõ…

Lâm Yến buông chén trà xuống, hai tay đặt trên đầu gối, sợi dây trường mệnh khuất trong ống tay áo cọ xát lên tay hắn, hơi ngứa, Lâm Yến cũng mặc cho nó ngứa…

 

 

 

Đăng trong Tiệm cơm nhỏ thành Trường An - Bánh Anh Đào

Tiệm cơm – Chương 61

Chương 61: Tình địch hư hư thực thực

Lâm Yến và Bùi Phỉ ngồi đối diện chơi cờ.

Rốt cuộc cũng qua dịp Tết Đoan Ngọ hành hạ người ta, bờ Khúc Giang nơi người dân toàn thành cuồng hoan không xảy ra mấy vụ chen lấn giẫm đạp lên nhau, ngự giá yên ổn đi lại yên ổn về, sứ thần ngoại bang cũng bắt đầu lục tục rời kinh, cuối cùng phủ Kinh Triệu cũng kết thúc khoảng thời gian người người đều trực gác.

Bình thường cứ Lâm Yến được nghỉ thì Bùi Phỉ đều sẽ tới Lâm trạch ăn chực uống chực.

Chưa tới nửa canh giờ, Bùi Phỉ đã quăng cờ nhận thua, kéo túi dựa nằm nhoài ra giường, trên khuôn mặt tuấn tú thấp thoáng vẻ rầu rĩ.

Lâm Yến yên lặng thu dọn bàn cờ.

Đột nhiên Bùi Phỉ nhìn thấy trong tay áo Lâm Yến có sợi dây màu sắc sặc sỡ chợt thoáng qua, nhìn giống như là dây trường mệnh, thế là không nén được cười, nói: “Thật đúng là được lòng thánh thượng, đến cả dây trường mệnh mà thánh thượng cũng không quên phần ngươi.”

Lâm Yến bình tĩnh kéo tay áo xuống che như không có chuyện gì: “Đây không phải do thánh thượng ban tặng.”

“Thái phu nhân đeo cho ngươi?” Mặc dù tháng năm rất nhiều đồng liêu đeo thứ này, nhưng biết Lâm Yến trước giờ không thích mấy thứ này nên Bùi Phỉ mới hỏi như vậy.

“Không phải.”

Bùi Phỉ đột nhiên nghĩ tới một khả năng: “Chắc không phải là…” Cũng được đấy, đã đưa lễ vật đính ước luôn rồi cơ à! Nghĩ tới nghiệt duyên giữa mình và Phúc Tuệ trưởng công chúa, Bùi Phỉ hâm mộ muốn chết, sao mà số mệnh An Nhiên tốt như vậy chứ? Cả đường làm quan lẫn đường tình duyên đều rất suôn sẻ.

“Ngươi đừng có nghĩ nhiều, không phải như ngươi nghĩ.” Lâm Yến nhếch miệng giải thích.

Bùi Phỉ nhướng mày: “Không phải do Thẩm cô nương tặng sao?”

Lâm Yến đậy nắp hộp cờ lại: “Chuyện trưởng công chúa ngươi cần phải nghĩ cho kĩ đi, dạo này bộ phận quản lý đời sống dân chúng thường xuyên nhắc tới.”

Yến tiệc bên bờ Khúc Giang ngày Đoan Ngọ, chuyện Phúc Tuệ trưởng công chúa về cùng xe với một quan viên trẻ tuổi được đồn thổi có đầu có ngọn, hương diễm vô cùng.

Bùi Phỉ giải thích: “Chuyện hôm Đoan Ngọ không giống như mọi người nói…” Chỉ mới nói được phân nửa thì lại thấy buồn cười, sau đó khẽ thở dài một hơi, cái này thật giống như lời vừa rồi của An Nhiên, xem ra ai cũng đều có nỗi khổ tâm cả.

Bùi Phỉ nói năng rất thành khẩn: “Nếu như đã nhìn trúng rồi thì đừng có bỏ lỡ. Ngươi có thể thấy được cái tốt của Thẩm cô nương thì đương nhiên người khác cũng nhìn thấy được. Nếu bị người ta nhanh chân đến trước, rõ ràng hai bên đều có tình có ý với nhau nhưng lại bỏ lỡ…” Bùi Phỉ lại thở dài một hơi.

Lâm Yến cất cờ xong, quay trở lại ngồi xếp bằng trên giường, hai tay nắm nhau đặt lên đùi, ngón trỏ và ngón giữa bàn tay phải lần vào tay áo trái vuốt ve nút buộc sợi dây trường mệnh – đây là thói quen mới hình thành dạo gần đây.

Bùi Phỉ biết bản tính của hắn, cho rằng hắn sẽ không trả lời, nào ngờ một lúc sau lại nghe hắn nói: “Dù sao cũng phải xác định tâm ý của nàng ấy đã.”

Bùi Phỉ: “…”

Ngay cả kẻ vì tình mà khốn như Bùi Phỉ cũng bị chọc cho phì cười: “Ngươi lại còn chưa xác định được tâm ý của người ta? Lâm An Nhiên ngươi mà cũng có lúc lo được lo mất! Năm xưa ở Hà Đông đã có bao nhiêu cô nương sai người tặng hoa thắng cho ngươi? Rồi sau này ngươi nhậm chức bên ngoài, còn cả ở kinh thành này nữa, chắc hẳn là cũng không ít nhỉ? Người trong mộng đám tiểu thư khuê các như ngươi mà lại…”

Bùi Phỉ cảm thấy Thẩm cô nương này đúng là một nhân vật không tầm thường, khiến An Nhiên nhớ thương thôi thì không nói làm gì, nhưng xem tình hình thế này thì có vẻ như cũng không hề để ý An Nhiên…

Khổ một mình không bằng có người khổ cùng, lúc này Bùi Phỉ chỉ hận không thể cười ầm lên, ha ha, An Nhiên ngươi cũng có ngày hôm nay!

Hai người thân thiết từ thuở niên thiếu, Lâm Yến biết hắn đang nghĩ cái gì, nhấp môi lườm hắn một cái, nghĩ ngợi một chút rồi chính mình cũng bật cười.

Mặc dù Bùi Phỉ là người không chịu bó buộc nhưng mà mắt nhìn thì vẫn phải có, buổi chiều lúc Lâm Yến tới Thẩm Ký ăn điểm tâm, mặc dù trong lòng hắn rất ngứa ngáy nhưng vẫn nhịn không đi cùng.

Lâm Yến vừa vào tới cửa đã thấy Thẩm cô nương đang trò chuyện vui vẻ với một vị lang quân trẻ tuổi, Thẩm cô nương cười híp mắt, vẻ mặt vui sướng cứ như lời được bao nhiêu bạc, trong đầu hắn đột nhiên hiện lên lời nhắc nhở của Bùi Phỉ.

Thẩm Thiều Quang còn chẳng phải là kiếm được không ít bạc sao!

Mấy lần bày sạp hàng ở Khúc Giang, lại có thám hoa lang giúp đỡ làm đại sứ hình tượng, đúng là bán bánh hoa ra chút danh tiếng thật. Lúc ấy có người nói là ăn còn ngon hơn xưởng bánh nổi tiếng ở Đông Thị Tây Thị, Thẩm Thiều Quang chỉ cho là lời nói xã giao cho vui lòng nhau thôi, lại không ngờ rằng thật sự có người nói cho người của xưởng bánh nghe, đấy, chẳng phải ông chủ nhỏ của người ta đã tìm tới sao?

Người này họ Thiệu, tên Kiệt, tự Anh Hiền, trong nhà mở xưởng bánh hoa Quế Hương Viên nổi danh nhất thành Trường An. Quế Hương Viên đã làm bánh hoa hơn một trăm năm nay, lúc trước Viên Giác sư thái có nhắc tới chuyện ở Đông Thị có xưởng bánh, chủ nhân nhờ làm bánh hoa rất ngon mà được phong làm quan viên ngoại, người đời gọi là viên ngoại bánh hoa, chính là ông tổ của vị Thiệu lang quân này.

Hiện giờ sản nghiệp Thiệu gia không ít, từ lâu đã không chỉ trông cậy vào làm bánh hoa kiếm tiền, nhưng dù sao đây cũng là cơ nghiệp tổ tiên, con cháu dòng chính trong nhà cứ thành niên đều phải tới xưởng bánh hoa này một thời gian.

Thiệu Kiệt hiện đang trong thời gian quản xưởng bánh hoa này. Nghe có mấy người khách nói cạnh Khúc Giang có bánh hoa làm rất ngon nhưng bình thường không có mà chỉ ngày lễ ngày tết mới có, sau lại nghe nói đó là sạp của quán rượu Thẩm Ký nào đó ở phường Sùng Hiền, hôm nay Thiệu Kiệt tới phường Sùng Hiền thăm bạn, chợt nhớ tới quán rượu Thẩm Ký này, vì vậy tới cửa hỏi thăm.

Quán rượu không lớn, nhưng từ trong ra ngoài đều toát lên vẻ thanh nhã sạch sẽ, Thiệu Kiệt nhìn tranh vẽ và mấy món trang trí lặt vặt trên tường, cảm thấy quán này có thể làm ra bánh hoa tốt cũng không khó hiểu.

Cho đến khi gặp nữ chủ nhân, lại ăn vài loại bánh hoa, uống một ấm nước ô mai ướp lạnh, Thiệu Kiệt liền đưa ra quyết định.

“Nếu đã là lang quân Thiệu gia của Quế Hương Viên ở Đông Thị thì sao lại có thể nhìn trúng công thức làm bánh của tệ quán?” Thẩm Thiều Quang cười hỏi.

Thẩm Thiều Quang từng vì hâm mộ tiếng tăm mà tới Quế Hương Viên ở Đông Thị gọi mấy loại bánh hoa chiêu bài, tất cả đều rất ngon, đặc biệt là bánh hoa quế nổi tiếng nhất của xưởng, vừa ngọt vừa mềm, không hề khiến người ta thấy ngán, ở phương bắc nơi người người đều thích mùi hoa quế, đúng là nó có nét độc đáo riêng.

Bánh ngọt nhà mình tinh xảo thì tinh xảo thật, nhưng nếu nói khó thì không hề khó, đặc biệt là với những người trong nghề, chỉ cần bẻ ra nếm thử, làm thử vài lần là ắt có thể làm ra được mùi vị không khác là mấy. Ở thời đại còn chưa có cái gọi là bản quyền sáng chế này, việc vị lang quân này muốn bỏ cả trăm lạng bạc mua công thức bánh đậu vàng và bánh bách quả có hơi kỳ lạ.

“Cô nương thận trọng quá rồi!” Thiệu Kiệt cười nói: “Vậy mỗ nói thật với cô nương vậy, hai loại bánh này mặc dù tốt nhưng lại không tốt bằng phương pháp bán của cô nương. Vừa rồi nghe tỳ nữ của cô nương nói, mỗi dịp lễ tết khác nhau thì sẽ có các loại hộp bánh khác nhau, hộp “cẩm tú tiền trình”, hộp “đoàn tụ sum vầy”, hộp “Phúc Lộc Thọ Hỷ”, bên trong bày các loại bánh ngọt phù hợp với hoa văn in bên ngoài…”

“Mặc dù mỗ chưa được nhìn thấy tận mắt nhưng vừa rồi thưởng thức mấy món bánh ngọt, nhìn hoa văn phía trên cũng có thể hình dung được hộp quà trông như thế nào. Tiếc rằng mỗ ngại nhất là lễ tết ra ngoài tham gia náo nhiệt, nếu không thì đã chẳng cần ngồi đây suy đoán thiếu căn cứ. Cho nên mỗ muốn tham khảo một chút, nhưng nếu cứ tay không lấy mất phương pháp của cô nương thì lại ngại…” Thiệu Kiệt cười rộ lên, lộ ra hai cái răng khểnh.

Nhìn nam tử trẻ tuổi cười rộ lên trông rất đáng yêu này, lại nghe lời nói thẳng thắn như vậy, Thẩm Thiều Quang có cảm giác như thể quay trở lại thời hiện đại, thật sự là người thời này cứ quen thói hàm súc quá mức, chưa nói tới người kiểu mẫu như Lâm thiếu doãn, ngay cả người bình thường cũng hiếm gặp được cái kiểu “thẳng thắn nói ra suy nghĩ trong lòng” như thế này.

Vẫn là câu nói kia, cái loại “sáng kiến” này thì còn chẳng bằng công thức làm bánh, cũng là thứ mà mọi người có thể dùng tùy ý, vị Thiệu lang quân này sẵn lòng dùng trăm lạng bạc để đổi, dù là vì quán cũ lâu năm coi trọng danh dự hay là vì người trẻ tuổi chưa đánh mất lương tâm thì cũng là bày tỏ sự tôn trọng, khiến người ta yêu thích – nhất là nếu so sánh với quán rượu Vân Lai, cũng là quan hệ cạnh tranh mà tác phong của vị này quá đẹp!

Thẩm Thiều Quang cũng là người hào sảng: “Nếu đã như vậy thì đa tạ lang quân đã coi trọng.”

Thẩm Thiều Quang bày giấy ra viết luôn công thức của hai loại bánh kia, còn vô cùng hào phóng bảo A Viên đi tìm thử coi còn hộp giấy nào không, gói tất cả số bánh hiện có trong quán vào hai hộp: “Thường ngày tệ quán không bán nhiều bánh, chỉ còn mấy loại bình thường, mong lang quân chớ chê.”

Thiệu Kiệt cười nói: “Rất ngay thẳng! Cô nương đây mày liễu không nhường mày râu!”

Tới lúc tiếp nhận giấy viết do Thẩm cô nương đưa cho, nhìn nét chữ mảnh đầy tinh thần trên đó, Thiệu Kiệt rên rỉ như thể đau răng: “Thật đúng là không nhường đấng mày râu, ngay cả chữ của cô nương cũng tốt thế này… Nếu mỗ có thể viết được thế này thì đã có thể nở mày nở mặt giữa đám huynh đệ rồi.”

Thiệu Kiệt tự than thở việc xấu trong nhà: “Chẳng giấu gì cô nương, mấy đời nhà ta đều khéo tay lại đều khéo ở chỗ khác, không khéo chuyện đọc sách viết chữ này…” Nói xong thì cười ha ha.

Thẩm Thiều Quang thật đúng là rất thích vị trẻ tuổi này, không đủ tự tin thì sợ là khó mà tự giễu một cách sảng khoái như vậy.

Thẩm Thiều Quang cười nói: “Ta cũng không giấu gì lang quân, ta cũng khéo tay lại không khéo ở thêu thùa may vá. Năm mới may mà xuân phiên trong sân treo cao, nếu không cũng mất mặt lắm…”

Thiệu Kiệt cười ha ha.

Thẩm Thiều Quang cũng cười.

Vu Tam đi ra hậu viện lấy thịt khô: “…”

Lâm Yến vừa mới bước chân vào cửa: “…”

Thiệu Kiệt thấy Lâm Yến thì kinh ngạc, vội vàng đứng lên đi lên trước hành lễ: “Bái kiến Lâm thiếu doãn.”

Là một cửa hàng lớn ở Đông Thị Tây Thị trong hoàng thành thì ắt phải có lúc qua lại với nha môn. Thiệu Kiệt đã từng gặp qua vị Kinh Triệu thiếu doãn này mấy lần, chỉ là chưa từng nói chuyện.

Lâm Yến liếc mắt quan sát hắn, mỉm cười nhè nhẹ: “Lang quân là?”

Thiệu Kiệt tự nói rõ thân phận, Lâm Yến gật đầu, đi tới chỗ ngồi cạnh cửa sổ quen thuộc của mình.

Thẩm Thiều Quang vẫn bưng đồ uống lên như thường lệ, hỏi hắn ăn món gì, tiến hành cuộc hội thoại như thường lệ mỗi ngày.

Sợ quấy rầy vị khách quý kia dùng bữa, mà nô bộc cũng đã mang trăm lạng bạc tới, giao bạc xong, Thiệu Kiệt hàn huyên với Thẩm Thiều Quang vài câu, lại tới cáo biệt với Lâm thiếu doãn rồi rời khỏi quán rượu.

Lúc Lâm thiếu doãn mới bước vào quán thì có vẻ khá nghiêm túc, lúc Thẩm Thiều Quang mang thức ăn lên thì phát hiện ra bây giờ hắn đã ôn hòa hơn hẳn. Ha ha, lòng dạ nam nhân như kim dưới đáy biển, mặt thiếu doãn như trời tháng sáu*, bao giờ thì vị Lâm thiếu doãn này mới có thể giống như vị Thiệu lang quân vừa mới về kia? Hẳn là chẳng có khả năng đâu, dù sao bản tính cũng khó dời mà.

* Người ta hay so sánh trời tháng sáu với tính khí trẻ con. Trời tháng sáu hay thay đổi, mới nắng đó nhưng có thể đổ mưa rào ngay được, cũng như trẻ con lúc khóc lúc cười, cả trời tháng sáu và tính khí trẻ con đều khó đoán.

Bởi vì toàn bộ bánh hoa ra dáng đều đã đóng gói hết cho vị Thiệu lang quân kia, Thẩm Thiều Quang liền bảo Vu Tam làm cho Lâm Yến mấy món ăn nhanh: chim cút chiên, rau cần bánh hợp, tôm nõn dưa chuột, lòng đỏ trứng muối hấp đậu phụ, thêm một bát cháo gạo đậu xanh chuẩn bị cho bữa tối và hai cuộn bánh cuộn hành nho nhỏ.

61.1

Số lượng cũng không nhiều, một cái khay nhỏ, bên trong đủ màu đỏ, trắng, xanh, vàng, trông rất sạch sẽ đẹp mắt; bát cháo nho nhỏ, bên trong không dám bỏ nhiều đường, vị này khẩu vị thanh đạm, không thích ăn ngọt, các món ăn đều mặn.

Múc một thìa cháo cho vào miệng, cả gạo và đậu đều nấu vừa độ, có vị ngọt dịu lại không lấn át mùi vị vốn có của cháo, Lâm Yến cong cong khóe mắt.

Kiếp này mắt Thẩm Thiều Quang rất tốt, liếc thấy sợi dây trên cổ tay lộ ra lúc hắn cầm bánh cuốn, trong lòng vốn đang còn muốn chọc cười hắn giờ không khỏi thấy căng thẳng.

Nhìn khuôn mặt tuấn tú, bờ vai rộng thắt lưng thon và cả đôi tay thon dài trắng nõn kia của Lâm thiếu doãn, Thẩm Thiều Quang lại đột nhiên nghĩ tới một vị mỹ nhân khá đẫy đà – Bảo tỷ tỷ, đương nhiên còn cả nỗi hối tiếc không thể sờ một sờ của Bảo Ngọc.

Thẩm Thiều Quang cũng tiếc nuối lắm, lại nhớ tới cái ôm hôm đó, xúc cảm đúng là không tệ, mặc quần áo thì gầy, còn cởi quần áo thì… chắc hẳn là có thịt…

Lâm Yến ngước mắt lên, đối diện với ánh mắt sáng quắc của Thẩm Thiều Quang, Thẩm Thiều Quang híp mắt cười, Lâm Yến thu mắt về, khóe miệng lại vểnh lên.