Đăng trong Tiệm cơm nhỏ thành Trường An - Bánh Anh Đào

Tiệm cơm – Chương 51

Chương 51: Khúc Giang thám hoa lang

Tết Thượng Tị là một ngày tốt, tốt với cả những người du xuân và cả những người mở sạp bày hàng.

Thẩm Thiều Quang đã mượn sẵn từ trước hai chiếc xe la, cùng mấy người Vu Tam, A Viên chuẩn bị các loại đồ ăn thành phẩm bán thành phẩm, chỉ chờ đến ngày là tới Khúc Giang kiếm một khoản lời to.

A Viên và Vu Tam chưa trải qua loại chuyện thế này bao giờ, càng khỏi phải nói tới A Xương. Chỉ biết trước đây cô nương từng bày sạp bán bánh rán, không ngờ rằng bây giờ cũng có thể “từ quán thành sạp” bất cứ lúc nào.

Thẩm Thiều Quang đắc ý kể lại thành tích bày sạp bán hàng Tết Đoan Ngọ năm ngoái: “Mấy thùng nước ô mai ướp lạnh to đùng đều được cấm quân bao hết, người khác muốn mua cũng không có. Qua Tết Đoan Ngọ rồi vị giáo úy mua nước ô mai kia lại tới tìm ta, ta dứt khoát bán luôn công thức cho hắn.”

Ba người bị hành động kiểu mới này làm cho chấn động, đến cả công thức mà cũng có thể bán sao?

“Bán bao nhiêu tiền?” A Xương hỏi.

Thẩm Thiều Quang thừa nước đục thả câu: “Các ngươi đoán xem.”

“Năm lạng.” A Xương nghĩ ngợi một lát.

A Viên thường giúp Thẩm Thiều Quang tính toán sổ sách, cảm thấy năm lạng không đủ để khiến cô nương đắc ý như vậy: “Mười lạng.”

Vu Tam chỉ lo bận rộn chuẩn bị, không nói chuyện.

“Hai mươi lạng.” Thẩm Thiều Quang cười híp mắt nói.

A Xương mở to hai mắt, một tờ công thức pha nước ô mai thôi đã đủ mua mấy hắn rồi.

A Viên vô tư vỗ tay, lại từ đây mở rộng ra: “Vậy nếu như chúng ta bán tất cả công thức làm thịt, làm ngọc tiêm diện…”

A Xương cười đáp trước: “Vậy sao được chứ? Người ta mua hết công thức món ăn của chúng ta rồi mở quán rượu, vậy thì cạnh tranh thế nào?” Sau vụ lần trước Thẩm Thiều Quang đã giảng giải cho mấy người Vu Tam và A Xương nghe về chuyện quán rượu Vân Lai, tránh sau này lại bị thiệt thòi.

Cuối cùng Vu Tam cũng không nghe nổi nữa, “ài” một tiếng: “Mấu chốt là không dễ gì gặp được một kẻ ngốc bỏ hai mươi lạng mua một tờ công thức nước ô mai như thế.”

Thẩm Thiều Quang: “…” Được được, các ngươi nói có lý hết.

A Viên tổng kết lại: “Dù sao thì cô nương vẫn rất lợi hại!”

Thẩm Thiều Quang cười híp mắt, đúng là tiểu cô nương vẫn hiểu lòng người khác hơn.

Chẳng mấy chốc đã tới ngày Tết Thượng Tị. Đứng ở vị trí bày sạp năm ngoái, nhìn A Xương nhóm lửa bắc bếp, Vu Tam nặn bánh nếp, A Viên múc nước lau bàn, Thẩm Thiều Quang không khỏi cảm khái. Năm ngoái chỉ có mỗi một mình nàng trông hàng, cái gì cũng đến lượt mình, kiếm được mấy ngàn văn tiền thì vô cùng hài lòng, lại nhìn nhìn hiện tại… Sau này rồi sẽ tốt hơn nhỉ? Chắc là thế nhỉ?

51 bánh

Bởi vì ra ngoài bày hàng nên đồ có thể mang đi theo rất hạn chế, chủ yếu là các loại bánh hoa, bánh đậu vàng, ngải ổ ổ, thanh đoàn, bánh nhân đậu đỏ, bánh hoa tuyết, tất cả đều là mang theo nhân bánh vỏ bánh và khuôn tới đây làm luôn tại chỗ, tránh bị nứt hay là vỡ vỏ bánh.

Lúc bán các loại bánh ngọt thì người nào chú trọng vẻ bề ngoài có thể đặt trong hộp giấy nhỏ tương xứng, ai không để ý thì chỉ gói sơ sơ hoặc cắm cái que cầm ăn luôn.

Trà với đồ uống thì đơn giản hơn, vì thời tiết thế này nên cũng không có đồ uống lạnh mà chỉ có trà hoa lài, nước sơn tra câu kỷ tử, từ hoa lài tới sơn tra câu kỷ tử đều được mua từ hiệu thuốc, nếu ngửi kĩ có thể ngửi ra được mùi đẳng sâm hoàng kỳ thoang thoảng. Ngoài ra thì còn thêm một món canh ngọt là bánh trôi rượu nếp, chuẩn bị cho những người đói bụng.

Bốn người chia nhau bày hàng ra, mấy hộp bánh hoa lớn đựng đủ loại bánh hoa nhiều màu sắc thì bày ở chỗ bắt mắt nhất, đảm bảo du khách đi ngang qua liếc mắt một cái là có thể nhìn thấy.

Có người vẫn còn nhớ rõ Thẩm Thiều Quang: “Bánh ú cô nương làm rất ngon!” Rồi lại nhìn thấy món ngải ổ ổ từng ăn ở đây thì càng mừng hơn: “Về sau chẳng ăn được bánh nhân đậu nào ngon như vậy!”

Người bên cạnh tò mò hỏi, bánh nhân đậu này có cái gì đặc biệt?

Vị khách ban đầu đúng là một người cố chấp thích tìm tòi tới cùng: “Mỗ từng cố ý đi hỏi một người bằng hữu am hiểu ăn uống, bánh nhân đậu này được gọi là “linh sa hấn”, ý là khen ngợi vẻ đẹp tinh thế nhẵn mịn của nó, lại khen nó ngọt mà không ngấy, bánh của cô nương này làm cũng đạt được mấy chữ này.”

Vị khách này lại nói tiếp, có người nói linh sa hấn do Quắc Quốc phu nhân thời Thiên Bảo làm là ngon nhất.

Mỹ thực trong phủ Quắc Quốc phu nhân thì không ăn được, nhưng ngải ổ ổ bên Khúc Giang thì lại có sẵn, mọi người nghe kể xong thì đương nhiên đều muốn nếm thử món ăn chứa đựng chuyện xưa phong lưu* thời Thịnh Đường này.

* Quắc Quốc phu nhân Dương thị, là một trong những người chị của Dương Quý phi. Bà nổi tiếng có nhan sắc mà không cần trang điểm, được vinh hiển do em gái Dương Quý phi đắc sủng, đồng thời bị đồn có quan hệ loạn luân với anh họ Dương Quốc Trung.

Trò chuyện cả một hồi lâu, sau có người hỏi có phải Thẩm Thiều Quang có mở cửa hàng bánh hoa ở chỗ nào không.

Thẩm Thiều Quang quảng cáo cho bọn họ nghe một hồi, giới thiệu quán rượu Thẩm Ký ở phường Sùng Hiền, lại cười áy náy: “Bình thường cũng có bánh hoa nhưng không nhiều kiểu dáng thế này. Nhưng mà mấy món gà vịt thịt cá nhắm rượu hay ăn với cơm như thịt mã não, viên phỉ thúy các loại thì rất nhiều.”

Nào là mã não nào là phỉ thúy, chỉ nghe tên thôi đã thấy đẹp, khách mua bánh hoa không chỉ không thất vọng mà còn thấy hứng thú hơn, thề rằng hôm khác nhất định phải tới phường Sùng Hiền vào quán rượu Thẩm Ký nếm thử món thịt và món viên hấp dẫn này.

Vu Tam hơi nghi hoặc nhìn nhìn Thẩm Thiều Quang, Thẩm Thiều Quang tỏ vẻ rất vô tội, bọn họ thật sự không phải là kẻ lừa đảo do ta mời tới, đây chính là sức mạnh của khách quen đấy.

A Viên thì chỉ ra sức tán thưởng: “Xem đi xem đi, ta đã nói là cô nương chỉ cần giới thiệu thôi cũng đã kéo được cả đống khách rồi.”

Bán xong một lượt khách đông, số khách tới mua đồ ăn dần thưa bớt, bốn người tranh thủ thời gian rảnh rỗi nghỉ ngơi nói chuyện phiếm một lát.

A Viên nhìn trái nhìn phải: “Cô nương, vị thám hoa lang kia sẽ đi qua chỗ chúng ta chứ?”

Cái này thì Thẩm Thiều Quang không biết thật: “Ngươi tới Hạnh Viên đi dạo một lát có lẽ sẽ nhìn thấy thám hoa lang đấy, dù sao bây giờ cũng không bận lắm.” Sau đó nàng lại nói với Vu Tam và A Xương: “Chờ A Viên về rồi các ngươi cũng thay phiên đi dạo một vòng đi, cũng coi như Tết Thượng Tị có tới Khúc Giang.”

A Viên lại lắc đầu: “Lần nào cũng là bọn ta ra ngoài chơi, còn cô nương thì ở lại. Lần này cô nương đi đi!”

Thẩm Thiều Quang bật cười, ta đã qua cái tuổi hâm mộ minh tinh từ lâu rồi, mấy chuyện kiểu để dành tiền tiêu vặt lâu ơi là lâu để mua một tấm vé hạng bét trong buổi concert của thần tượng thế này năm xưa ta đều đã làm cả rồi, bây giờ chẳng ham “già này giở thói ngông cuồng của tuổi trẻ*” nữa.

* Trích “Giang thành tử – Mật Châu xuất liệp” (Đi săn ở thành Mật Châu) của Tô Thức.

Vu Tam nhìn A Xương: “Ngươi cũng đi cùng đi.”

Thẩm Thiều Quang nhướng mày. Vu Tam chỉ lo cho nhân bánh vào trong thanh đoàn, gói xong lại ép vào trong khuôn, thế là thành một cái thanh đoàn hình chữ phúc.

A Xương cười hì hì tháo bao tay và tạp dề ra: “Ta đi theo cô nương.”

Thẩm Thiều Quang bị chỉ tên, đành nhận ý tốt của bọn họ, cũng tháo tạp dề ra, cười nói: “Vậy chúng ta đi ra ngoài dạo một lát, lát nữa trở về thay phiên.”

186-29252

Thẩm Thiều Quang dẫn A Xương đi về phía Hạnh Viên, dọc đường rất đông người, chắc hẳn đều đang đứng chờ xem tiến sĩ tân khoa. Không biết vị thám hoa lang này bắt đầu cưỡi ngựa thám hoa từ giờ nào, Thẩm Thiều Quang không muốn đứng yên chờ nên dẫn A Xương đi tiếp, trên đường mua một bọc to kẹo vừng, còn mua cho A Xương một cái tranh đường rất đẹp.

A Xương mừng rỡ, ngay cả lúc còn nhỏ cũng chưa từng được đối xử như vậy: “Thôi cô nương ăn đi.”

Thẩm Thiều Quang thích ăn ngọt nhưng lại không ăn được ngọt quá: “Ngươi ăn đi. Cái này không dễ cầm, nếu không thì cũng mua đưa về cho A Viên một cái.”

Thẩm Thiều Quang cầm lấy bọc kẹo vừng, để cho A Xương lo ăn cái tranh đường của hắn.

Ngẩng đầu nhìn nước sông trong vắt, thuyền đi lại trên mặt sông và cả mấy con chim nước thỉnh thoảng bay qua, hàng liễu rũ đong đưa dọc theo bờ sông, nhìn từ xa xa là một mảng xanh mướt, đúng là có nét giống “liễu như khói”. Thẩm Thiều Quang lại nghiêng đầu sang hướng khác nhìn các lang quân anh tuấn, các cô nương ăn mặc điểm trang lộng lẫy, người nào người nấy đều mặt phấn mày ngài, còn trẻ tuổi đúng là tốt thật đấy.

Đứng cạnh bờ sông hóng gió một hồi, túm một cọng cỏ non ngậm trong miệng, thấy A Xương đã ăn hết kẹo thì đi về.

Lúc đi qua Hạnh Viên thì nghe nói là các thám hoa lang mới đi qua không lâu.

A Xương rất kích động: “Chúng ta đi nhanh một chút có lẽ còn đuổi kịp.”

Thẩm Thiều Quang ném cọng cỏ đi, cùng A Xương đi nhanh về phía trước, quả thật là đuổi kịp.

Qua khe hở giữa đám người đông nghịt, Thẩm Thiều Quang nhìn thấy hai vị thám hoa lang kia quả thật là còn rất trẻ, nhìn chỉ chừng hai mươi, một người thì ăn mặc lộng lẫy, mày kiếm mắt sáng, đôi môi rất mỏng, nhìn tướng mạo rất phong lưu; người còn lại thì mặt trắng như phấn, mặt mày tinh xảo, nhìn qua đã thấy xuất sắc hơn người.

Chà chà, thám hoa lang khoa thi năm nay rất có nhan sắc đấy. Thẩm Thiều Quang so sánh với vị thám hoa lang mà mình có quen biết, khí chất của vị kia có hơi cao ngạo lạnh nhạt, như cành bách xanh biếc giữa ngày đông vậy, không có vẻ gần gũi thế này.

Lúc này có người tỳ nữ không biết là của nhà ai muốn lại gần, chắc là vị thám hoa lang mày kiếm mắt sáng kia có quen biết, bảo người tỳ nữ kia đi tới, người tỳ nữ dâng lên một tấm khăn lụa.

Vị thám hoa lang kia mở khăn ra nhìn một chút, sau đó cong môi cười. Điệu cười phong lưu này khiến vô số thiếu nữ phải hít vào một hơi, thế là lập tức có người ném khăn lụa hay nhánh hoa trong tay về phía hai vị thám hoa lang giống như tục lệ lưu hành ở tiền triều.

Hai vị thám hoa lang cười cưỡi ngựa đi về phía trước.

“Chậc chậc! Thiếu niên đăng khoa, Khúc Giang thám hoa, lại có danh kỹ Bình Khang tặng khăn lụa in dấu son, đời người đắc chí cũng không gì hơn được thế này*!”

* Thật ra đây là chuyện của thi nhân Hàn Ác thời Vãn Đường. [tác giả]

“Tứ lang cũng chăm chỉ một chút, chưa biết chừng sang năm lại là ngươi đấy.”

Thẩm Thiều Quang nghiêng đầu nhìn hai vị sĩ tử bên cạnh, thì ra chiếc khăn lụa lúc nãy là của danh kỹ Bình Khang tặng, hơn nữa còn có thêm “nghệ thuật gia công” đầy mùi hương diễm, người thời Đường các ngươi cũng biết cách chơi thật đấy!

Thấy có cô nương xinh đẹp đang nhìn mình, hai người sĩ tử kia cũng nở nụ cười, gật đầu với Thẩm Thiều Quang.

Thẩm Thiều Quang cười gượng một tiếng rồi chen ra khỏi đoàn người.

Bởi vì thám hoa lang ở phía trước nên Thẩm Thiều Quang ngại chen lên trước, liền dẫn A Xương đi vòng lung tung một hồi, mua thêm chút đồ ăn vặt nữa, chờ trên đường rảnh bớt người mới đi trở về sạp hàng của mình.

Vừa trở lại thì thấy Vu Tam và A Viên đang bận tối mày tối mặt, Thẩm Thiều Quang và A Xương vội vàng bắt tay vào làm.

Dù cho đang rất bận nhưng A Viên vẫn báo cáo tình hình cho Thẩm Thiều Quang: “Cô nương, cô nương, vừa rồi vị thám hoa lang kia mua bánh hoa của chúng ta đấy! Còn nói gì mà “bánh còn đẹp hơn hoa” nữa.”

Mấy người khách mua hàng bên cạnh cũng nhao nhao cười nói: “Bọn ta cũng nếm thử món bánh hoa mà cả thám hoa lang cũng thích.”

Thẩm Thiều Quang: “…” Đây là duyên phận gì đây? Thì ra gà quay Càn Long, bánh ngô Từ Hy đều có thể là thật cả!

Thẩm Thiều Quang vừa bận rộn vừa cân nhắc ý định về sẽ dùng thám hoa làm chiêu bài quảng cáo cho bánh hoa.

Nhờ có thám hoa lang giúp đỡ mà bánh hoa hôm nay vô cùng đắt hàng, dần dần có loại đã bán sạch, tới buổi chiều thì dù đã chuẩn bị rất nhiều nhân bánh và vỏ bánh nhưng đều không còn, chỉ còn lại mấy khối bánh hoa tuyết.

Khách cũng ít, Thẩm Thiều Quang vội vàng giục bọn Vu Tam A Viên đi dạo một vòng, để nàng canh sạp, chờ bọn họ quay lại rồi sẽ dọn sạp về nhà.

Vị đã từng là thám hoa lang kia tới đúng vào lúc này.

Thẩm Thiều Quang phát hiện ra là vị này rất thích xuất hiện lúc đêm xuống tiệc tan người ít, dường như trời sinh đã mang vẻ cô độc.

Xuất hiện vào lúc này thì vấn đề lớn nhất là… không còn đồ ăn nữa!

Thẩm Thiều Quang cười híp mắt chọc ghẹo: “Thám hoa lang hiện tại mua mất bánh rồi, khiến thám hoa lang trước kia không còn bánh để mua.”

Khóe mày Lâm Yến hơi cong cong: “Vậy thì uống chút trà hoa lài.”

Thẩm Thiều Quang rót trà cho hắn, bưng luôn mấy khối bánh kia tới, sau đó đi thu dọn đồ đạc.

Dọn dẹp xong quay người lại thì thấy Lâm thiếu doãn đang khẽ cúi đầu, cầm nắp chén trà nhẹ nhàng gạt vụn trà đi, có lẽ là vì sống mũi cao nên khuôn mặt nhìn nghiêng trông rất đẹp, bộ quan phục màu đỏ tươi trên người cũng rất hợp.

So sánh với hai vị thám hoa lang vừa rồi thì vẻ đẹp của vị này là kiểu đẹp đã lắng đọng qua thời gian, giống như… Thẩm Thiều Quang lại nghĩ tới chân giò muối treo dưới mái hiên trong hậu viện nhà mình.

Bây giờ Thẩm Thiều Quang cảm thấy Lâm thiếu doãn có thể tính là chân giò muối hai năm, thêm rượu hoa điêu chưng lên thì chắc là rất ngon.

Lâm Yến nghiêng đầu, vừa khéo đối diện với ánh mắt Thẩm Thiều Quang.

Thẩm Thiều Quang không hề có vẻ ngượng ngùng vì bị bắt quả tang tại trận, lại còn cười nói: “Năm đó Lâm lang quân thám hoa Hạnh Viên cũng náo nhiệt như vậy sao? Có…” Thẩm Thiều Quang khẽ ho một tiếng rồi ngừng lời. Hỏi người ta là có danh kỹ tặng khăn tay hay không thì có phần khinh bạc người ta rồi.

Lâm Yến mỉm cười: “Hằng năm đều như vậy.”

“À…” Thẩm Thiều Quang gật đầu.

“Chỉ là lúc đó không có bánh hoa ngon như vậy để ăn.” Lâm Yến hơi cúi xuống, cầm lấy một khối bánh hoa tuyết bỏ vào trong miệng, chậm rãi nhai.

“…” Thẩm Thiều Quang nhịn không được mỉm cười, không phải hôm nay Lâm thiếu doãn ăn mật rồi mới tới đấy chứ? Sao đột nhiên lại ăn nói ngọt lịm như vậy?

Khóe mắt Lâm Yến hơi cong lên, tựa như nụ lan mới nở.

 

 

Đăng trong Tiệm cơm nhỏ thành Trường An - Bánh Anh Đào

Tiệm cơm – Chương 50

Chương 50: Sóng trào và mạch nước ngầm

Buổi chiều Bàng nhị nương thật sự đến như đã hẹn, Thẩm Thiều Quang cũng thật sự dẫn nàng ta tới một góc yên ắng trong quán. Bức tường phía trên chiếc bàn dài bày một chậu sứ trắng trồng mấy cọng tỏi, đây là vì Thẩm Thiều Quang lỡ quên, không kịp ăn vào lúc nó tươi ngon nhất, để qua mấy ngày thì già mất rồi, đành phải để vậy nuôi làm cảnh, chờ cho nó già. Mặc dù không ăn được nhưng nhìn mấy cọng tỏi xanh um cũng thích mắt.

Bên cạnh mấy cọng tỏi còn có mấy con búp bê bằng da bò mua ở Tây Thị, trên môi chấm chút chu sa, trông ngốc ngốc vui vui.

Bàng nhị nương ngồi xuống ở chỗ có mấy cọng tỏi và mấy con búp bê ngốc nghếch này, Thẩm Thiều Quang hỏi nàng ta muốn ăn cái gì, thực ra Bàng nhị nương cũng không trông cậy ăn được mỹ vị gì đặc sắc quý hiếm ở quán rượu nhỏ của Thẩm Thiều Quang, quán ăn ngoài chợ mà, có tốt thế nào đi chăng nữa thì cũng đâu thể sánh được bằng đầu bếp phủ quốc công?

Nhưng đã nói là tới ăn cơm thì đương nhiên phải làm cho đến đầu đến đuôi, Bàng nhị nương bèn bảo nàng chọn mấy món ngon ngon bưng lên.

Đây thật đúng là vung tiền như nước! Thế là Thẩm Thiều Quang bưng lên năm sáu món cá đắt nhất trong quán, lại thêm canh, món chính và điểm tâm, cả bàn đầy ắp.

Nhìn món cá sốt óng ánh, thịt mã não đỏ tươi, viên phỉ thúy xanh biếc, đậu phụ trắng nõn, Bàng nhị nương lại đột nhiên sinh ra cảm giác thèm ăn, chỉ riêng cái vẻ ngoài thế này… cũng coi như là hiếm thấy giữa chốn phố chợ, thảo nào buổi trưa lại có nhiều người ăn như vậy, cũng chả trách Viên Giác sư thái rất yêu thích.

Bàng nhị nương gắp thử một đũa cá rán, chua chua ngọt ngọt, thơm nức, đúng là ăn rất ngon!

Bàng nhị nương không nhịn được gắp thêm vài đũa nữa.

Người tỳ nữ phục vụ bên cạnh hơi ngạc nhiên, nhị nương nhà mình ăn uống luôn xoi mói, đã bao giờ ăn như thế này đâu?

50 viên phỉ thúy

Sau đó Bàng nhị nương lại ăn một miếng thịt mã não, bốn năm miếng viên phỉ thúy; món đậu phụ này không biết làm thế nào mà vừa non vừa mềm, không hề có chút vị tanh nào, Bàng nhị nương cũng ăn nửa bát nhỏ; món ngọc tiêm diện này thì có nét giống đồ ăn trong cung, tinh xảo đẹp mắt mà nhân bánh cũng thơm, bất giác ăn liền ba cái; thanh đoàn trong một cái đĩa khác thì lớp vỏ ngoài màu xanh, lớp nhân đậu bên trong lại màu đỏ, không ngọt lắm nhưng lại mềm dẻo, mùa xuân mà ăn bánh này cũng rất hợp, thế là Bàng nhị nương gắp thêm một cái…

Dưới ánh mắt ngạc nhiên thậm chí hơi lo lắng của đám tỳ nữ, Bàng nhị nương không phụ sự kỳ vọng của người khác mà… ăn no quá.

Thẩm Thiều Quang bận việc của mình một lát rồi tới chào hỏi nàng ta, nhìn đồ ăn còn dư lại trên bàn cùng dáng vẻ ăn no sinh lười và khuôn mặt vui vẻ của Bàng nhị nương, chà chà, sức chiến đấu cũng được đấy chứ, lúc trước nhìn dáng vẻ nàng ta như vậy còn tưởng là chỉ ăn khói uống gió cơ đấy.

Đồ ăn trong quán mình được ủng hộ, Thẩm Thiều Quang cũng vui vẻ, tự đi rót một cốc nước cam thảo sơn tra bưng tới cho nàng ta, thứ này hỗ trợ tiêu hóa, tránh cho bữa tối ăn nhiều vậy lại đầy bụng.

Thời tiết không tốt, buổi chiều trời mưa dày hạt hơn một chút, trong quán cũng không đông khách lắm, đặc biệt là sau giờ cơm, dần dần chỉ còn lại mỗi mình bàn Bàng nhị nương.

Rốt cuộc Thẩm Thiều Quang cũng hết bận, bưng một cốc nước mật hoa quế đi tới ngồi cùng Bàng nhị nương.

Mưa đập vào giấy dán cửa sổ, tạo nên những tiếng xào xạc. Ngọn đèn dầu hơi lắc lư, Thẩm Thiều Quang ngồi bên kia bàn nói chuyện phiếm với Bàng nhị nương.

Có thể nói chuyện gì chứ? Chẳng qua là nói về mấy trào lưu đang phổ biến trong kinh thành mà thôi, như là búi tóc mẫu đơn thì lệch một chút mới đẹp, hay là tới mùa xuân mà vẫn dán hoa điền thếp vàng thì quá tục, dán lông chim trả vẫn hơn, rồi thì dạo này lại lưu hành kiểu vẽ mày núi xa…

“Ngươi xem lông mày của ta này.” Bàng nhị nương dò đầu lại gần: “Đã sửa lại rồi.”

Thẩm Thiều Quang gật đầu: “Quả thật là đẹp hơn lông mày lúc trước nhiều lắm. Cái kiểu mày liền quyên đó e là chỉ dành riêng cho con trai của Mạc Tà, người thường như chúng ta vẽ không ra.”

Bàng nhị nương không biết tới điển cố “Mi Gian Xích”, nhưng cũng thấy được là mày liền quyên cũng không đẹp, nhưng mà nó lưu hành trong cung mà, ai cũng vẽ, mình không vẽ chẳng phải là lạc hậu lắm sao?

* “Mi Gian Xích” là một truyền thuyết về một người có tài đúc kiếm thời Xuân Thu, con trai của Mạc Tà, tên là Xích, vì lông mày rộng tới một thước nên được gọi là “Mi Gian Xích”.

Thẩm Thiều Quang thấy cô nàng này đúng là ăn nhầm thuốc thời thượng, mốt và đẹp là hai thứ khác xa nhau đấy! Để cứu vớt cho cách trang điểm của Bàng nhị nương, Thẩm Thiều Quang quyết định khuyến mãi cho nàng ta câu danh ngôn của Gabrielle Coco Chanel: “Có một vị phu nhân họ Hương* đã từng nói, “Thời trang sẽ nhạt nhòa đi, chỉ có phong cách vẫn còn mãi”, ngươi phải ngẫm nghĩ cho kĩ xem có phải là đạo lý này không.”

* Phiên âm Hán Việt của tên Chanel trong tiếng Trung là Hương Nại Nhi.

Sức mạnh của danh ngôn chính là ở chỗ nó có thể vượt qua thời gian và không gian, cho dù là ở bất cứ thời đại nào thì nó cũng có thể làm dao động suy nghĩ của người ta. Bàng nhị nương cau mày, càng ngẫm nghĩ càng cảm thấy lời này rất có đạo lý, lại nghĩ không biết người nói lời này là dòng dõi gia tộc họ Hương nào của triều đại nào, nhưng bởi vì nhà mình chỉ mới nổi lên chưa lâu mà Bàng nhị nương cũng không chuyên cần đọc sách nên không dám hỏi, sợ lộ ra cái quê mùa của mình ở trước mặt Thẩm Thiều Quang.

Bàng nhị nương lại dần dần phát hiện ra, Thẩm cô nương này thế mà lại biết rất nhiều trào lưu trong kinh thành, nàng ngày ngày bận bịu với củi gạo dầu muối, sao lại biết những cái này chứ?

Thẩm Thiều Quang cười cười: “Mặc dù thời trang thì sẽ phai nhạt nhưng cái đẹp thì là vĩnh hằng.”

Thẩm Thiều Quang chấm rượu vẽ lên bàn một khuôn mặt người, giải thích cho Bàng nhị nương nghe cái gì gọi là “tam đình ngũ nhãn*”: “Thông thường thì cứ càng gần tiêu chuẩn này thì lại càng đẹp. Chúng ta trang điểm cũng là để bù vào những chỗ không đủ, khiến cho ngũ quan gần hơn với tiêu chuẩn này.”

50 tam đình

* “Tam đình ngũ nhãn” là tỷ lệ tiêu chuẩn chung của khuôn mặt: chiều dài khuôn mặt được chia làm ba phần bằng nhau – từ chân tóc tới xương trán, từ xương trán tới dưới mũi và từ mũi tới cằm; chiều rộng khuôn mặt từ chân tóc bên trái tới chân tóc bên phải được chia làm năm phần bằng nhau và bằng chiều rộng của một mắt.

Bàng nhị nương như thể được mở ra cánh cửa bước vào một thế giới mới, hơi hé miệng ra ngạc nhiên nhìn Thẩm Thiều Quang, lại nhìn bức tranh rượu trên bàn, nghĩ ngợi một lát, gật mạnh đầu.

Thẩm Thiều Quang thấy nàng ta “trẻ nhỏ dễ dạy” thì lại càng nói nhiều hơn: “Hai năm trước lưu hành kiểu môi đậu đỏ, chỉ có chút xíu như vậy đặt trên khuôn mặt to thế này thì có đẹp không? Lại còn kiểu trán rộng nữa.” Nhắc tới trào lưu này, Thẩm Thiều Quang lại muốn nhổ nước bọt: “Cạo sạch tóc trước trán, làm cho trán rộng ra lại trống huơ trống hoác như vậy làm cái gì chứ? Để đánh xe ngựa à? Hay là định vẽ thêm nào là má lúm nào là hoa điền ở trên mặt nữa, chê sân không đủ rộng để tập luyện nên định mở thêm sân khác nữa?”

Bàng nhị nương phì cười, giữa cả đám trào lưu, thứ duy nhất mà nàng ta không bắt chước chính là kiểu “trán rộng” này. Thực sự không đẹp, nhưng mà thực sự rất phổ biến, còn lưu hành được lâu hơn các loại lông mày.

Hai người trò chuyện tới lúc trống canh gần điểm thì Bàng nhị nương mới đứng dậy ra về. Trước khi về Bàng nhị nương mới nhớ ra là hôm nay không đợi được Lâm thiếu doãn, nói chuyện vui quá nên quên mất chuyện này…

Thẩm Thiều Quang cười: “Hẹn mai gặp lại nhị nương.”

Quay vào quán cất số tiền mà tỳ nữ của Bàng nhị nương để lại vào trong rổ đựng tiền, Thẩm Thiều Quang nheo mắt cười, trong này chắc chắn phải tới một lạng bạc phí giảng bài, tri thức thật đúng là tiền bạc…

Ngày nào Bàng nhị nương cũng tới tìm Thẩm Thiều Quang, chạy suốt bảy tám ngày, khuôn mặt vốn nhỏ nhắn đã tròn lên rồi thì mới chờ được Lâm thiếu doãn.

Lâm Yến lại làm thêm tới muộn, phạm lệnh cấm đi đêm trở về, thấy Thẩm Ký còn sáng đèn thì xuống xe, để đám tôi tớ về nhà trước, một mình hắn chậm rãi bước vào quán.

Vừa vào tới cửa đã nghe thấy Thẩm cô nương đang vừa cười vừa nói: “Trang điểm trên mặt cũng giống như làm văn, phải biết nặng biết nhẹ. Nếu mặt mày đã tốt sẵn thì hãy làm nổi bật mặt mày, nếu miệng xinh đẹp thì nhấn mạnh vào đôi môi, nếu chỗ nào trên mặt cũng muốn nổi bật thì cả khuôn mặt sẽ thành cái bảng màu…”

Phép làm văn, biết nặng biết nhẹ… Lâm Yến vòng qua bức bình phong thì nhìn thấy Thẩm cô nương và Bàng nhị nương ở trong góc.

Đối diện với ánh mắt bừng sáng của Bàng nhị nương, Lâm Yến rũ mắt xuống, khẽ gật đầu với nàng ta, đi tới góc đối diện.

Thẩm Thiều Quang quay đầu, nhị nương thời gian không phụ người có lòng, mất hai mươi mấy lạng bạc, cuối cùng cũng chờ được vị này.

Bàng nhị nương khẽ chạm vào cây thoa cài đầu hình hoa đào, kéo căng vạt áo, nhướng mày nhìn Thẩm Thiều Quang, dùng ánh mắt để hỏi xem nàng ta ăn mặc trang điểm thế này có ổn không?

Thẩm Thiều Quang gật đầu khẳng định, hôm nay Bàng nhị nương thật sự rất đẹp, trang điểm theo phong cách hoa đào trông rất xinh xắn, vạt áo hoa xòe ra, mang theo vẻ ngây thơ trong sáng của thiếu nữ, trông đẹp hơn nhiều bộ đồ rực rỡ trong lần gặp đầu tiên hồi năm ngoái. Nói ra thì Bàng nhị nương cũng rất có khiếu trong khoản ăn mặc và trang điểm.

“Lâm lang…” Bàng nhị nương cúi người hành lễ.

Thẩm Thiều Quang tránh vào bếp, lại kéo cả A Viên đang ngồi uống trà đi để tránh khỏi xấu hổ.

“Muộn thế này Lâm lang mới tới ăn cơm, đúng là công việc ở nha môn thật bận rộn.” Tiếng cười trong vắt của thiếu nữ.

“Làm hết phận sự chức trách mà thôi.” Giọng nam lạnh nhạt.

“Lâm lang đang bận chuẩn bị cho Tết Thượng Tị sao? Vậy Lâm lang cũng sẽ tới Khúc Giang chứ? Nghe nói Tết Thượng Tị năm nay tiến sĩ khoa vừa rồi sẽ tới Khúc Giang thám hoa, có thật vậy không?”

“Phải.” Nhưng không biết chữ “phải” này là trả lời câu hỏi nào trong ba câu hỏi trên.

“Nghe nói năm đó Lâm lang cũng từng là thám hoa lang, là thật sao?” Giọng nói đầy mong chờ khiến cho Thẩm Thiều Quang nghe xong cũng giật mình, tâm tư thiếu nữ thật là thơ ngây…

Nhưng mà người nghiêm túc như Lâm thiếu doãn đây mà cũng từng trải qua chuyện phong lưu thế sao? Nhưng ngẫm lại cũng phải, với tướng mạo tuấn tú của vị này thì được chọn làm thám hoa lang cũng chẳng phải chuyện khó hiểu. Ở thời này thám hoa còn chưa phải là cách gọi riêng cho người đứng thứ ba trong kỳ thi tiến sĩ mà chỉ là một chức vụ tạm thời, chọn một vị trẻ tuổi tuấn tú nhất trong số các tiến sĩ tân khoa đi thăm vườn hoa nổi tiếng, ngắt cành hoa tươi.

“Đã muộn rồi, cô nương nên về sớm đi.” Giọng nói lại càng lạnh nhạt hơn.

“Ta, ta chỉ muốn hỏi một chút…”

“Cô nương đi về đi.” Câu nói tiếp theo của Bàng nhị nương bị nghiêm túc cản lại.

Sao Bàng nhị nương có thể không hiểu ra cơ chứ, đôi mắt ngấn nước, nàng ta cắn cắn môi, giậm chân xoay người ra về.

Nghe thấy tiếng động ở cửa, Thẩm Thiều Quang mới bảo A Viên bưng trà ra.

Vừa rồi lúc Bàng nhị nương nói chuyện, Vu Tam đã cảm thấy Lâm thiếu doãn này thật là không nghiêm túc, đi trêu hoa ghẹo nguyệt, sau đó nghe hắn thẳng thừng từ chối thì lại cảm thấy hắn ý chí sắt đá, không biết thương hương tiếc ngọc. Vu Tam cau mày liếc Thẩm Thiều Quang, ngươi nhìn người cái kiểu gì thế hả? Chỉ biết nhìn mặt!

Thẩm Thiều Quang cầm thực đơn đi ra, cười hỏi Lâm Yến: “Hôm nay Lâm lang quân muốn ăn gì?”

Nghe cách gọi “Lâm lang quân” đàng hoàng đầy đủ này của Thẩm Thiều Quang, so sánh với cách gọi “Lâm lang” vừa rồi của cô nương Bàng gia, Lâm Yến nhếch môi: “Cô nương cứ tùy ý đưa lên là được.”

“Vậy được, lang quân chờ một chút!” Thẩm Thiều Quang cất quyển thực đơn, cười nói.

Nghe xong hai tiếng “lang quân” bỏ luôn cả họ này, giống như gọi tùy ý một người thực khách, miệng Lâm Yến lại càng mím sâu hơn.

Thẩm Thiều Quang quay trở lại phòng bếp, bảo Vu Tam làm cho Lâm Yến món trứng chiên hẹ non, thịt khô xào hành, lại thêm rau trộn, đậu phụ hấp, nàng thì tự đi băm rau thơm, trộn với thịt làm món thịt viên chụng nước thanh đạm. Hai người cùng nhau làm, chỉ mất một lúc đã xong, thêm một phần bánh muối tiêu hấp, bảo A Viên dùng khay bưng ra.

Một lát sau, đoán chừng hắn đã ăn xong, Thẩm Thiều Quang đi ra chào: “Lâm lang quân còn muốn gọi thêm gì nữa không?”

Lâm Yến dừng một chút, rũ mắt nói: “Rất ngon, rau rất non, thịt viên cũng rất thơm, đa tạ.”

“…” Á, xem ta nghe được cái gì này? Vị Lâm thiếu doãn này lại khen đồ ăn ngon cơ đấy! Vị tiên sinh này hôm nay bị cái gì kích động rồi?

“Lâm lang quân không cần khách khí.” Thẩm Thiều Quang cười giả lả.

Lâm Yến liếc nàng một cái, cúi đầu nhấc chén trà lên uống.

 

 

Đăng trong Tiệm cơm nhỏ thành Trường An - Bánh Anh Đào

Tiệm cơm – Chương 49

Chương 49: Mưa phùn cắt hẹ xuân

Trời càng ngày càng ấm lên rõ rệt, đến cả kẻ sợ lạnh như Thẩm Thiều Quang mà cũng đã cởi áo đông ra thay bằng áo khoác mỏng màu xanh biếc cực kỳ hợp với không khí mùa này, lại kết hợp với váy trắng, trông hệt như một cọng hành non. Cọng hành non… Cuộn bánh chấm chút nước tương hoặc là rửa sạch cắt nhỏ chiên trứng đều rất ngon, Thẩm Thiều Quang vừa soi gương vừa cân nhắc.

Đi tới dưới mái hiên, vươn tay ra hứng thử một chút, mưa phùn lất phất như kim thêu, Thẩm Thiều Quang cất ô trở lại trong góc nhà, cứ để đầu trần như vậy chậm rãi đi ra quán.

Bữa sáng Vu Tam làm là bánh rán hành, canh rau chân vịt, ăn kèm mấy món dưa muối và trứng vịt muối.

Cắn thử một miếng bánh rán hành, nhìn hành lá bên trong, Thẩm Thiều Quang cảm thấy tay nghề xử lý hành của công chúa Vu Tam cũng rất tốt.

Vu Tam làm bánh nướng rất khá, không giống như mẹ của Thẩm Thiều Quang ở kiếp trước. Bà rất ẩu, bánh nướng trên dưới hai tầng vỏ, ở giữa là một tầng ruột, bị cha của Thẩm Thiều Quang cười cho, bảo là “bánh một tầng ruột”.

Nhưng bà ngoại của Thẩm Thiều Quang lại có thể làm ra bánh nướng áp chảo tới bảy, tám tầng, thứ bánh mà lớp vỏ không dính dầu, bên trong không có hành lá như thế thích hợp nhất là để cuộn trứng gà chấm nước tương – bánh này ở miền bắc gọi là bánh cuộn trứng cỡ lớn.

Từ sau lần mẹ Thẩm biến món thịt bò viên chụng nước thành một nồi canh thịt, Thẩm Thiều Quang dứt khoát cướp luôn nhà bếp, chỉ cần nàng ở nhà thì mẹ Thẩm khỏi cần vào bếp, lúc đó Thẩm Thiều Quang chừng mười sáu hay mười bảy tuổi gì đó.

Thẩm Thiều Quang cảm thấy tài nấu nướng của mình là được di truyền cách thế hệ, đương nhiên cũng có thể là vì con nhà nghèo sớm thạo việc nhà, ăn cơm của một người mẹ với tài nấu nướng như thế nhiều năm như vậy mà vẫn vui vẻ lớn lên cho được, tính ra nàng cũng thật là dễ nuôi!

Thật ra mẹ Thẩm cũng có đôi món sở trường, ví dụ như món cá kho thông thường hay món ngải ổ ổ khá có tính văn nghệ chẳng hạn. Nhưng đây quả thật chỉ có thể tính là ánh đèn đom đóm lập lòe giữa màn đêm tối tăm mà thôi.

Thẩm Thiều Quang tự dìm hàng mẹ mình một trận, trên mặt lộ ra nụ cười.

Vu Tam liếc nàng một cái, ăn bánh rán hành, uống canh rau chân vịt mà cũng vui mừng như vậy? Chắc không phải là Lâm thiếu doãn kia lại đưa tới tặng thứ gì đấy chứ?

Ánh mắt Vu Tam đảo qua khắp mặt Thẩm Thiều Quang một vòng, từ đợt lập xuân bắt đầu càng ngày càng thân thiết với Lâm thiếu doãn tới giờ, cô nương cứ như rau cải thảo được ngấm mưa xuân trở nên tươi non nõn nà vậy, nhưng nghĩ tới con heo muốn trộm mất cây rau cải nhà mình, Vu Tam vô cùng sốt ruột: “Ăn một bữa cơm thôi, có gì mà vui thế chứ?”

Thẩm Thiều Quang ngước mắt lên, đã giờ này rồi mà còn chưa hết bực tức vì ngái ngủ nữa? Chẳng lẽ dưới đệm lông ngỗng của công chúa bị hạt đậu làm cộm lên nên ngủ không ngon giấc? Không thể chọc vào người ngủ không ngon giấc được, Thẩm Thiều Quang cười xòa: “Bánh hôm nay rất ngon, canh cũng ngon, ăn ngon miệng thì đương nhiên sẽ vui rồi.”

A Viên lại cứ như minh chứng cho lời nói của Thẩm Thiều Quang, dùng muôi canh múc thêm một bát canh rau chân vịt nữa.

Thực ra món canh này cũng không có gì đặc biệt, nếu nói tại sao nó ngon thì chỉ có hai chữ – rau non. Rau chân vịt tươi non được xào sơ qua rồi thêm nước vào, nước sôi rồi thì cho thêm một ít bột súng, lại đổ thêm trứng gà khuấy đều, bỏ thêm muối, chút dầu vừng, thế là xong. Cách làm chỉ đơn giản như thế thôi nhưng canh lại rất ngon.

Vu Tam vươn tay không đánh người mặt cười, liếc Thẩm Thiều Quang cái nữa rồi cúi đầu ăn canh của mình.

Thẩm Thiều Quang cười, cái tính khí này của công chúa điện hạ đúng là một tháng ba mươi ngày kinh nguyệt.

Ăn xong bữa sáng mà Vu Tam thì lo lắng bận lòng còn ba người kia thì hết sức vui vẻ, quán rượu nhỏ bắt đầu bước vào thời gian làm việc thường ngày. A Xương quét tước, A Viên nhặt rau, Vu Tam xử lý nguyên liệu nấu ăn, Thẩm Thiều Quang tính toán doanh thu ngày hôm qua, nhận rau và thịt do hàng rau hàng thịt đưa tới.

Thịt lợn là chính, thịt dê cũng phải mua một ít, gà mái nhỏ và bồ câu cũng phải có, rau xanh các loại thì phải thêm một ít, dạo này dùng khá nhiều rau xanh. Phường đậu phụ Cầu gia lại đưa đậu phụ tới, rồi xưởng ép dầu đưa dầu vừng tới… Cứ quay quay chưa làm được gì đã hết cả buổi sáng.

Điều khiến Thẩm Thiều Quang vui mừng là đại thúc đánh cá đợt trước lại bắt đầu đưa cá tới, đủ loại cá chép, cá diếc, cá trắm cỏ, lớn nhỏ đều có, Thẩm Ký lại bắt đầu treo thực đơn món cá. Hôm nay đưa tới hai con cá chép đuôi đỏ dài hơn một thước, vừa khéo để làm cá sốt giấm chua. Cứ nói triều đình tị húy không cho ăn cá chép*, nhưng sao có thể cấm nổi chứ? Từ quan tới dân nên ăn cái gì thì vẫn cứ ăn cái đó.

* Cá chép trong tiếng Trung phát âm là [lǐ], gần âm với họ Lý của các vị vua thời Đường.

Hôm nay hàng rau đưa tới hẹ vàng rất tươi, Thẩm Thiều Quang dặn Vu Tam để lại cho nàng một bó, bữa trưa sẽ làm cho mọi người nếm thử món bánh nhân thịt và hẹ vàng.

49 bánh nhân hẹ

Mặc dù hẹ vàng tính ra cũng là cùng một cây với hẹ nhưng lại tươi non hơn, mùi cũng không hăng bằng hẹ. Hẹ vàng cắt nhỏ trộn thịt ba chỉ làm nhân bánh, bột mì nhào nhuyễn, nhéo một nắm cán thành vỏ bánh, bày một ít nhân bánh lên trên rồi đắp thêm một tầng vỏ bánh nữa, niết chặt phần mép, dùng đĩa cỡ lớn ép lên cắt phần mép thừa ra. Phết dầu lên mặt chảo, đặt bánh lên, nướng bằng lửa liu riu.

Bánh nhân thịt trộn hẹ vàng như vậy có lớp vỏ cháy vàng và mùi thơm nức mũi, nếu cắn thử một miếng… Chậc chậc!

A Viên bị Thẩm Thiều Quang nói cho chảy cả nước miếng: “Cô nương, chỉ cần cô nương đứng bên ngoài quán miêu tả xem món nào làm thế nào, mùi vị thế nào cũng đã có thể kéo được bao nhiêu khách vào ăn rồi.

“…” Con bé A Viên này nhạy bén thật đấy, sao ngươi biết kiếp trước ta làm cái nghề này hả?

Làm gì có tuần san mỹ thực nào mà không chứa đựng một lượng lớn quảng cáo? Chỉ dựa vào tiền bán tạp chí thôi thì chết đói lâu rồi. Viết văn miêu tả mỹ thực chính là sở trường của Thẩm Thiều Quang.

Nàng nhớ từng có một khách sạn mới ra một món cá nấu nho, không thơm, không nồng, không tươi, không mềm, có hơi giống kẹo cao su không đường, mà mấu chốt là lại còn khá đắt, Thẩm Thiều Quang không khen được, thế là tán thưởng loại cá này rất “dí dỏm”. Sau có độc giả phản hồi lại là “Rốt cuộc tôi cũng hiểu tại sao cô lại khen là “dí dỏm” rồi, nhưng khổ nỗi tôi lại không bới ra được chỗ nào sai, đám nhà văn các cô thật là vô lương tâm…”

Thẩm Thiều Quang cảm thấy, có lẽ là vì kiếp trước nói điêu kiểu này hơi nhiều nên ông trời chịu không nổi, thế cho nên mới để nàng xuyên tới đây làm đầu bếp. Báo ứng, đúng là báo ứng.

Thẩm Thiều Quang đang cảm khái thế sự vô thường thiên đạo luân hồi, ngước mắt lên thì nhìn thấy mấy người từ trong mưa phùn đi tới, trong đó có một người là Liễu Phong, mấy người còn lại cũng khá quen mắt, hình như là có quen biết với Hoàn Thất, nhưng hôm nay không thấy Hoàn Thất, cũng không thấy tên họ Lục từng bị nàng chặn họng.

Thẩm Thiều Quang đi ra chào hỏi: “Chào các vị lang quân.” Lại đặc biệt ân cần hỏi thăm Liễu Phong: “Hôm nay Liễu lang quân nghỉ sao?”

Mấy người sĩ tử đều gật đầu hoàn lễ với Thẩm Thiều Quang, Liễu Phong cười chào: “Thẩm cô nương.”

Lâu lắm rồi không gặp vị Liễu lang quân này, hình như hắn gầy đi một ít, đương nhiên cũng có thể là vì cởi bỏ áo đông.

Thẩm Thiều Quang bảo A Viên bưng nước trà xanh lên, tự mình giới thiệu cho bọn họ nghe món ăn chủ bài mùa xuân của quán mình – lẩu dù ngon nhưng cũng đã hết mùa rồi. Thẩm Thiều Quang cũng giống như đám đàn ông cặn bã, bây giờ đã ném tình yêu cũ về chân trời xa rồi, trong đầu chỉ có mỗi tình yêu mới tươi mơn mởn của mình.

Nghĩ tới đàn ông cặn bã, Thẩm Thiều Quang lại lắm miệng hỏi thăm một câu: “Sao hôm nay không thấy Hoàn lang quân?” Hoàn toàn chẳng hề có chút chột dạ nào giống như hãm hại người ta xong thì sợ chạm mặt.

Liễu Phong nói cho nàng biết: “Hoàn Thất đi Sơn Nam Tây Đạo du lịch rồi.”

Thẩm Thiều Quang gật đầu: “Ông cha ta đã nói “đọc vạn quyển sách, đi ngàn dặm đường”, người đọc sách ra ngoài du lịch cũng là mở mang kiến thức.”

Bây giờ kỳ thi của bộ Lễ vừa mới yết bảng đã đi du lịch, vậy thì chắc chắn là lại không có tên trên bảng vàng rồi. Nếu như đổi lại là người phẩm hạnh tốt thì có lẽ Thẩm Thiều Quang sẽ cảm thán một câu “có tài nhưng không gặp thời”, dù sao tiến sĩ cũng khó đậu thật, ai mà chẳng có lúc thi cử không trót lọt? Nhưng mà vị này… Chắc là cũng thiên đạo luân hồi như mình rồi?

Thẩm Thiều Quang tự nhận mình chẳng phải người tốt, nhưng lại được mấy người sĩ tử tặng cho tấm thẻ người tốt. Bởi vì khoa thi này mấy vị đây cũng rớt bảng, chỉ có thể sang năm tái chiến, hoặc là cũng phải ra ngoài “du lịch” một phen, đi tới chỗ khác thử vận may, làm phụ tá mấy năm rồi về thi lại, như vậy cơ hội sẽ lớn hơn một chút. Bữa tiệc hôm nay là tiệc rượu đưa tiễn.

Mấy người này nghe xong cô nương Thẩm Ký nói “đọc vạn quyển sách, đi ngàn dặm đường”“người đọc sách ra ngoài du lịch cũng là mở mang kiến thức” thì như nói đúng tâm sự của mình, vớt vát mặt mũi, lập tức nhao nhao cười nói: “Cô nương đúng là kiến thức rộng rãi.”

Thuận miệng nói xong mấy câu xuôi tai, ghi xong tên mấy món được gọi, Thẩm Thiều Quang liền quay trở lại bếp.

Một người sĩ tử trong số đó thấp giọng cười nói: “Rốt cuộc bây giờ cũng biết tại sao khi đó Liễu Tam lại đề thân rồi, nói cho cùng thì cô nương này cũng xuất thân từ Thẩm thị Lạc Hạ, đúng là bậc nữ tử hơn người.”

Liễu Phong vội vàng ngăn lại: “Xin chớ nói những chuyện này.”

Một người sĩ tử khác nói: “Ngươi không biết, mấy hôm trước tam lang đã đính hôn với nữ nhi nhà Triệu lục sự phủ Kinh Triệu rồi.”

Sĩ tử lúc nãy vội vàng nhận lỗi: “Là mỗ đã đường đột, không biết chuyện này.”

Liễu Phong vội vàng xua tay.

Đám sĩ tử cười hỏi bao giờ thành thân, biết đã định ngày là mùa thu năm nay thì mấy người đều tiếc nuối lắc đầu, sợ là không thể uống được rượu mừng của Liễu Tam rồi.

Rượu và đồ ăn lần lượt được bưng lên, có sĩ tử nâng rượu lên chúc Liễu Phong tân hôn vui vẻ trước.

Thẩm Thiều Quang bưng cá sốt giấm chua đi ra nghe được thì hơi ngạc nhiên, cũng vội vàng cười chúc mừng.

Liễu Phong đứng lên chắp tay cảm tạ, có lẽ là vì uống rượu nên mặt hơi ửng đỏ.

Thẩm Thiều Quang ngoài mặt thì đoan trang đứng đắn nhưng trong lòng lại đang trêu ghẹo, ngươi kết hôn thì cảm tạ ta làm cái gì? Cảm tạ ta đã không gả cho ngươi sao? Cái này… thật là hơi đau lòng.

Thẩm Thiều Quang quay trở lại bếp, bảo Vu Tam làm thêm hai món “phú quý cát tường” và “trăm năm hảo hợp” coi như là quà tặng của quán mừng cho hôn sự của Liễu Phong.

Thấy hai người đối đãi với nhau rất lịch sự, đặc biệt là vị Thẩm cô nương này thật là hào sảng phóng khoáng, mấy người sĩ tử chẳng còn ý đồ chọc ghẹo nữa, lại lần nữa cảm khái Thẩm cô nương này thật chẳng hổ danh là con nhà quyền quý.

Người tới quán rượu dần nhiều lên, Bàng nhị nương dẫn tỳ nữ đi tới vừa đúng lúc trong quán đông khách nhất.

Thẩm Thiều Quang hơi ngớ ra, vội vàng tới nghênh đón: “Nhị nương tới am lễ Phật sao?”

Bàng nhị nương cười gật đầu, lại cau mày nhìn quán rượu ngồi chật kín: “Còn tưởng là tới chỗ ngươi có thể yên tĩnh ngồi nói chuyện ăn bữa cơm chứ.”

Thẩm Thiều Quang mỉm cười, thật là muốn nói với cô nương này rằng nếu thật đúng như ngươi nói, giữa trưa mà còn yên tĩnh thì ta phải ăn khói uống gió rồi.

“Thế thôi vậy, hôm khác ta lại tới tìm ngươi, dù sao ta cũng định ở lại trong am một thời gian.” Bàng nhị nương không chịu nổi cảnh ồn ào chen chúc trong quán, xoay người đi.

Thẩm Thiều Quang đứng ở cửa tiễn nàng ta đi giữa cơn mưa phùn.

“Có chuyện này hỏi ngươi.” Bàng nhị nương nhìn trái một cái nhìn phải một cái, thấp giọng nói: “Lâm thiếu doãn đã từng tới quán ngươi ăn cơm chưa?”

Đây là muốn tới “tình cờ gặp gỡ” sao? Thật đúng là một cô nương dám nghĩ dám làm.

“Đã từng tới.” Thẩm Thiều Quang gật đầu.

Bàng nhị nương mừng rỡ, hoa điền giữa hai hàng mày càng xinh đẹp hơn, nàng ta nghĩ ngợi một chút, hỏi Thẩm Thiều Quang: “Hắn có thường xuyên tới không? Hắn thích ăn cái gì?”

Lâm thiếu doãn thích ăn cái gì… Thẩm Thiều Quang hơi khó xử, hình như vị này chẳng thật thích một món nào đặc biệt cả, tính ra thì khẩu vị khá thanh đạm.

Bàng nhị nương không đợi Thẩm Thiều Quang trả lời đã đưa ra quyết định: “Viên Giác sư thái thường nói tài nấu nướng của cô nương rất tốt, từ ngày mai, không, từ tối nay ta sẽ tới nếm thử đồ ăn của quý quán.”

Nhớ tới chuyện A Viên đề nghị nàng đứng ở cửa quán rượu giới thiệu cách làm và mùi vị đồ ăn để kiếm khách, Thẩm Thiều Quang cười vô tội, vị khách này thật sự không phải do ta kéo vào.

Nhưng đến thì cũng đã đến rồi, nhất định phải giữ lại, Thẩm Thiều Quang cười nói: “Cô nương tới sớm một chút, ta sẽ để dành chỗ yên tĩnh nhất cho cô nương.”

“Được, Thẩm cô nương, vậy buổi tối gặp.”

Thẩm Thiều Quang cười híp mắt nhìn nàng ta dẫn tỳ nữ của mình ra về. Dưới ô, Bàng nhị nương trong bộ y phục màu hồng nhạt trông hệt như một bông hoa hạnh mới nở.

Vị Lâm thiếu doãn kia chẳng qua cũng chỉ là hơi đẹp trai thôi mà, đúng là mỹ sắc lầm người… Thẩm Thiều Quang lắc đầu, quay trở lại trong quán.

 

 

 

 

Đăng trong Tiệm cơm nhỏ thành Trường An - Bánh Anh Đào

Tiệm cơm – Chương 48

Chương 48: Ngày xuân ăn rau xuân

Người ta ra ngoài xem đèn thì mang về đủ loại đèn, cháu nhà mình đi ra ngoài xem đèn lại mang về một hộp bánh trôi nếp.

Đối diện với ánh mắt chế nhạo của bà nội, Lâm Yến nhếch miệng, rũ mắt mỉm cười: “Đi ra ngoài dạo một lát, đói bụng thì đi vào Thẩm Ký ăn chút đồ ăn nóng. Bà chủ Thẩm rất khách khí, bảo ta mang về cho a bà mấy cái nếm thử.”

Giang thái phu nhân mở nắp hộp ra nhìn, hơi ngạc nhiên: “Ngọt sao?”

Nhìn vẻ mặt như con nít của bà nội, Lâm Yến bật cười: “Ngọt, nhân vừng.” Sau đó bảo vú già đi nấu cho bà nội mấy cái: “Buổi tối chỉ nếm thử vài cái thôi, nếu không sẽ không tốt cho tiêu hóa.”

Chẳng bao lâu sau, vú già đã bưng một bát nhỏ đựng bánh trôi lên, bên trong chỉ có bốn cái bánh trôi, nhà bếp cho thêm mật hoa quế vào trong nước canh, vừa ngửi đã thấy mùi hương ngọt ngào.

Thái phu nhân cầm thìa múc một cái, nhẹ nhàng thổi một hơi, cắn ra, bên trong chảy ra nhân bánh đen đặc.

Giang thái phu nhân chậm rãi ăn hết bánh, gật đầu: “Vừa ngọt vừa mềm vừa thơm, cũng chỉ có mỹ nhân khéo tay như Thẩm cô nương mới làm ra được.”

Mỹ nhân… Lâm Yến khẽ ho một tiếng, mỉm cười gật đầu: “Phải.”

“Không biết sau này ngươi cưới vợ có khéo được thế này không, nếu có thể được một nửa tay nghề của Thẩm cô nương này thì ngươi đúng là có phúc.”

Lâm Yến mỉm cười một cái, rũ mắt xuống.

Giang thái phu nhân nghĩ ngợi một chút, lại nói: “Nhưng mà ngươi không có một cái lưỡi nhạy bén, bình thường ăn gì cũng như nhau. Nếu như cưới một nàng dâu giỏi nấu ăn, người ta bưng lên một bát canh vây cá chế biến tỉ mỉ, nhưng ngươi ăn lại như ăn canh miến, hỏi ngươi mùi vị thế nào, ngươi chỉ nói được một chữ “tốt”… Như vậy thì thật chẳng phải quá thiệt thòi cho người ta.”

Lâm Yến ngước mắt lên, bắt gặp ánh mắt chê bai lại hơi khó xử của bà nội, khóe miệng không khỏi mân lại, nhưng rồi lại bất đắc dĩ bật cười.

Giang thái phu nhân cũng bật cười thành tiếng, mấy người vú già đứng phục vụ cũng cười.

Vú già A Tố đi theo Giang thái phu nhân đã nhiều năm, rất có địa vị trước mặt chủ nhân, lập tức cười nói: “Sao thái phu nhân lại có thể chọc ghẹo a lang như vậy? A lang chỉ là không khéo mồm khéo miệng được như người khác mà thôi.”

Giang thái phu nhân cười gật đầu: “Thiếu sót của hắn chính là ở cái điểm này, y như hũ nút vậy. Cũng may được bộ mặt đẹp, có thể dựa vào cái này để lừa gạt được cô nương người ta về nhà.”

Mấy người vú già lại cười khuyên thái phu nhân.

Bên ngoài truyền tới tiếng trống canh, Lâm Yến đứng lên: “Cũng không còn sớm nữa, a bà đi nghỉ sớm đi.”

Giang thái phu nhân gật đầu: “Ngươi cũng đi ngủ sớm một chút.”

Lâm Yến hành lễ rồi lui ra ngoài.

Phía sau có tiếng nói chuyện loáng thoáng: “Thái phu nhân lo nghĩ nhiều quá rồi, a lang nhà chúng ta không chỉ tuấn tú, muốn tài có tài, muốn mạo có mạo, không phải lo chuyện không cưới được vợ.”

“… Nếu có thể cưới được một người tính tình hoạt bát một chút, hai người bù trừ cho nhau thì tính ra cũng tốt…”

Tính tình hoạt bát… Lâm Yến cất bước rời đi.

“A lang đi thong thả.” Vú già trực đêm dưới hiên hành lễ.

Lâm Yến gật đầu, dọc theo hàng hiên đi ra khỏi viện của bà nội.

Đi tới thư phòng, Lâm Yến ngồi trước bàn sách, thuận tay cầm lên một quyển du ký trong rương, lật xem mấy trang rồi lại cất trở lại, rút ra mấy quyển vở tập viết bên dưới.

Nét chữ non nớt chép “Kinh Thi”: “Khởi viết vô y? Dữ tử đồng bào*… Tịnh nữ kỳ xu, sĩ ngã vu thành ngu**…” Trong đó mấy chữ “y”, “bào”, “xu” viết rất tốt, được khoanh vòng.

* Trích “Vô y” (Không có áo), dịch nghĩa: Há rằng anh không có áo quần ? Thì cùng anh mặc chung chiếc áo nhỏ!

** Trích “Tĩnh nữ” (Cô gái nhàn nhã), dịch nghĩa: Người con gái nhàn nhã đẹp đẽ. Hẹn đợi ta ở chỗ góc thành (chỗ hẻo lánh tối tăm).

Lại nhìn thấy lời bình luận của hai nét chữ khác nhau ở phía sau: “Chữ của A Tề, như nằm như ngồi”, “Như nằm như ngồi, ngay thẳng thoát tục”… Lâm Yến nhếch khóe môi, thả lại mấy quyển vở tập viết vào trong rương, nghĩ ngợi một lúc lại lần nữa đặt vào giữa, cất tiếng gọi người hầu đứng bên ngoài: “Ngày mai đưa rương sách này tới cho cô nương chủ quán Thẩm Ký.”

Người hầu đáp vâng.

Thẩm Thiều Quang mới ăn bữa sáng xong một lát thì nhận được số sách này.

Lưu Thường hành lễ, nói: “Đây là đồ a lang nhà ta bảo đưa tới cho cô nương.”

Thẩm Thiều Quang cười nói cảm tạ.

Lưu Thường lại hành lễ rồi ra về.

Vu Tam từ phòng bếp đi ra, liếc mắt nhìn rương sách, bây giờ các lang quân tặng đồ cho các cô nương đều quang minh chính đại như thế sao? Nhưng mà… Vu Tam quan sát cái rương gỗ rất bình thường kia, thế này chẳng phải hơi kém sang sao?

Thẩm Thiều Quang mở nắp rương, lấy quyển sách trên cùng ra lật xem.

Lại còn là sách cũ? Vu Tam hiểu rồi, chắc chắn là mấy quyển sách hiếm, lại cố tình dùng một cái rương gỗ mộc mạc như vậy để đựng, như thế sẽ không giống mấy thứ phù phiếm xa hoa, Lâm thiếu doãn này cũng… mưu mô thật!

Nhìn vẻ mặt tập trung chăm chú của cô nương, Vu Tam bĩu môi, các cô nương thật là, ài… Đi thẳng ra hậu viện.

Đây là một quyển thi phú thời Lục triều*, phần lớn là các tác phẩm ca ngợi núi non, bên cạnh nét chữ bình luận khá quen thuộc thì phần lớn đều xa lạ, “Năm mươi sẽ từ quan, dong xe về Tuyền Lâm”, Thẩm Thiều Quang thở dài cảm khái, cuối cùng hắn không thể thực hiện được nguyện vọng tới năm mươi tuổi thì từ quan về quy ẩn, đời người thất thường thế đấy.

* Lục triều chỉ sáu sáu triều đại trong các thời kỳ Tam Quốc (220–280), Lưỡng Tấn (265–420), và Nam-Bắc triều (420–589) trong lịch sử Trung Quốc. Giai đoạn này bắt đầu ngay sau sự sụp đổ của nhà Hán vào năm 220, và là một giai đoạn chia rẽ, bất ổn định và xung đột. Lục triều chấm dứt khi Tùy Văn Đế tái thống nhất miền Nam và miền Bắc Trung Quốc.

Thẩm Thiều Quang ôm rương sách lên, A Viên muốn giúp nàng, Thẩm Thiều Quang lắc đầu: “Ngươi cứ bận việc của ngươi đi.”

Vu Tam xách một miếng thịt khô đi vào, nghe vậy thì bĩu môi, mấy cô nương mà đã động lòng thì đều trở nên kiểu cách cả…

Thẩm Thiều Quang trở lại hậu trạch, chậm rãi lật xem sách trong rương, “phụ thân” ở trong sách dần trùng khớp với người trong trí nhớ, một người phụ thân, một người phu quân ôn hòa hài hước, một văn nhân nhàn tản yêu thiên nhiên, một đệ tử thế gia ung dung thanh nhã, một thị lang bộ Lễ có nhiều kiến nghị đối với chế độ khoa cử, còn cả… người trần tình đến bật khóc trước thềm điện như trong lời kể của Lý tướng công.

Thẩm Thiều Quang cũng lật tới được mấy quyển vở tập viết của “chính mình”.

Thực ra nàng vẫn thừa kế được kỹ năng thư họa của nguyên thân, nhưng sau này học hỏi rèn luyện được nhiều hơn, cái bóng của nguyên thân càng mờ nhạt đi, so với bây giờ thì giống như hai người viết.

Thẩm Thiều Quang cũng nhìn thấy lời phê bên trong vở, đặc biệt là hai câu “như nằm như ngồi”, không khỏi bật cười.

Nếu như không xảy ra chuyện, có một cặp cha mẹ như vậy, còn cả người ca ca đáng yêu như trong trí nhớ, “Thẩm Thiều Quang” sẽ sống cuộc sống như thế nào?

Đông thưởng tuyết, xuân ngắm hoa, luyện chữ vẽ tranh, tiệc tùng vui chơi, lớn lên trong nhung lụa, sau đó trải qua sự sàng chọn của cha mẹ, mình cũng đứng nhìn từ phía sau tấm bình phong, gả cho một “tiên lang tài mạo” con cháu nhà dòng dõi lại có năng lực mà tướng mạo có lẽ cũng rất tốt…

Thẩm Thiều Quang cũng thấy hơi đau lòng cho “chính mình”, số mệnh tốt đẹp như vậy lại đã tắt lịm giữa đêm đông năm mười tuổi đó.

Thẩm Thiều Quang phải xem mấy ngày mới xem xong số sách này, bởi vì chúng quá ảnh hưởng tới tâm trạng cho nên sau khi phơi nắng xong thì nàng đóng kín lại, sau đó tiếp tục cuộc sống của “Thẩm Thiều Quang” hiện tại.

Vừa vào tháng hai, trời đã ấm lên hẳn. Băng trên Khúc Giang dần tan đi, nước xuôi theo dòng, đám cá ngột ngạt cả một mùa đông cuối cùng cũng được hít thở, liễu hai bên sông đâm chồi xanh mơn mởn, gió cũng dịu dàng ấm áp hơn, có cảm giác như “xuy diện bất hàn*”.

* Trích “Tuyệt cú” của Chí An thiền sư, câu thơ đầy đủ là “Xuy diện bất hàn dương liễu phong”, dịch nghĩa là: Gió xuân thổi vào mặt nhưng không lạnh.

Vừa khéo trời lại đổ cơn mưa xuân, chẳng mấy chốc mà rừng cây bên Khúc Giang, Lạc Du Nguyên, trên sườn núi ngoài thành, thậm chí là trong các vườn hoa trong thành, trong các trạch viện bỏ hoang đều xuất hiện mầm xanh, cỏ dại còn chưa kịp xanh tươi trở lại thì rau dại đã ló ra góp vui trước.

Các lang quân trẻ tuổi, các cô nương xinh xắn đều vội vàng đổi áo xuân, đi dã ngoại du xuân đạp thanh. Lại có không ít thiếu phụ xách giỏ trúc đi ra vùng ngoại thành “chọn rau dại”, hoặc cho nhà mình ăn, hoặc đưa vào thành bán, kiếm thêm chút tiền cho gia đình.

Thẩm Thiều Quang may mắn mua được không ít rau dại như vậy.

Kiếp trước Thẩm Thiều Quang chẳng phân biệt được mấy loại rau dại, kiếp này vẫn chẳng phân biệt được, còn phải nhờ tới A Viên dạy nàng, đây là dương xỉ xanh, đây là bồ công anh, kia là thanh ngưu… Đám lớn nhất thì Thẩm Thiều Quang nhận ra được là rau dền.

“Mấy cái này ăn thế nào?” Thẩm Thiều Quang nhờ A Viên chỉ dạy.

“Trước kia trong nhà Từ nương tử đều nhúng nước sôi, sau đó trộn với chút muối rồi ăn.”

Thẩm Thiều Quang: “…”

Hỏi Vu Tam, hắn cũng chỉ mới làm vài loại trong số đó mà thôi, Thẩm Thiều Quang chỉ có thể tự mình từ từ tìm tòi.

Chụng nước sôi, bỏ thêm vừng giã vụn, tỏi giã, giấm chua trộn lên ăn; thêm bột gạo bột mì chưng lên, chấm nước trộn từ tương hải sản, nước gừng, dầu vừng; ép lấy nước ngâm nếp làm thanh đoàn; băm làm canh gà với rau; lấy chồi chiên với trứng, hoặc kẹp với thịt ba chỉ thái sợi, đậu phụ thái sợi, sợi miến bỏ vào trong bánh xuân…

Quả nhiên đúng như tưởng tượng của Thẩm Thiều Quang lúc trước, có chút rau dại thì đĩa xuân mới thật sự là đĩa xuân chân chính, và cũng đúng như tưởng tượng của nàng, đĩa xuân chân chính này rất được hoan nghênh. Có không ít nhà quyền quý mua, đặt đưa tới nhà, ví dụ như vị Lý tướng công kia, cứ vài bữa người làm trong Lý gia lại tới đặt một phần.

Thậm chí còn có người đặc biệt làm thơ, cái gì mà “Bạch ngọc bàn thượng thanh ti nộn, phỉ thúy phủ trung luyến nhục hương*”, đĩa bạch ngọc không có, nồi phỉ thúy cũng không có, nhưng rau non thịt thơm thì có thật.

* Nghĩa là: Trên đĩa bạch ngọc là rau xanh non, trong nồi phỉ thúy là thịt thơm ngon.

Thẩm Thiều Quang tận dụng bằng hết mặt tường bên ngoài quán, mời sĩ tử làm bài thơ này đề thơ lên đó. Thời này đề thơ lên tường là một chuyện vừa phong nhã lại thường tình, người sĩ tử đã hơi chếnh choáng say kia vui vẻ đồng ý, múa bút vẩy mực, chỉ chốc lát đã xong, không ngờ cũng là một tay chữ thảo lưu loát hào sảng.

Thẩm Thiều Quang vỗ tay, ra sức tán thưởng, quyết định không lấy tiền của vị tổng giám sáng tạo quảng cáo này.

Được cô nương xinh đẹp khen ngợi, sĩ tử cười đắc ý, rất muốn làm thêm cả trăm tám chục bài thơ nữa.

Trừ những phương pháp ăn như thế này thì kể cả tới thời hiện đại, công dụng kinh điển nhất của rau dại vẫn là làm nhân bánh. Thế là ngọc tiêm diện của Thẩm Ký có thêm mấy loại nhân bánh rau dại, lại còn có cả hoành thánh nhân rau dại vỏ mỏng nhân lớn.

Thẩm Thiều Quang thích nhất là bánh nhân rau dền, thích thứ hai là nhân thanh ngưu. Mùi vị của rau dền không quá đậm, không đắng cũng không ngái, lại có chút ngọt, trộn chung với thịt ba chỉ làm nhân sủi cảo hoặc hoành thánh là ngon nhất, chờ nấu chín rồi, chấm một ít dầu vừng trộn giấm chua và tỏi giã, một người có thể ăn nửa cái đĩa to.

Rau thanh ngưu thì có vị hơi cay, trộn với thịt dê theo tỷ lệ rau ít thịt nhiều làm sủi cảo cũng rất thơm.

Lâm Yến tới gọi bữa phụ, Thẩm Thiều Quang liền đề cử cho hắn hai món mà nàng tự nhận là ăn ngon nhất này cùng với món chính theo mùa: “Rau dền có vị ngọt tươi của mùa xuân, rau thanh ngưu thì có thể làm nổi lên mùi thơm của thịt dê, đều rất ngon.”

Đối diện với đôi mắt cũng tràn ngập cảnh xuân tươi mới của Thẩm Thiều Quang, Lâm Yến dời mắt đi chỗ khác: “Vậy thì chọn cái trước đi.”

Thẩm Thiều Quang cười đáp: “Được, lang quân chờ một chút.” Đang xoay người đi thì đột nhiên dừng lại, nhìn Lâm Yến, ánh mắt như cười như không, bộ dạng hơi ngượng ngùng khi nói “cái trước”, cố gắng tránh đi chữ “tề” thế này: “Chẳng lẽ Lâm lang quân đã xem mấy quyển vở tập viết?”

Lâm Yến chỉ thấy mặt hơi nóng lên, chuyện thế này sao có thể nói thẳng mặt như thế? Liếc mắt nhìn điệu cười giả lả của Thẩm cô nương, Lâm Yến nhếch miệng: “Cô nương lúc còn bé nét chữ xinh đẹp nho nhã, bây giờ chữ lại mạnh mẽ cứng cáp, chỉ là đừng quá không ràng giữ là được rồi.”

“Có câu Trời đất là quán trọ của vạn vật; quang âm là khách qua đường của trăm đời*”, đời người chỉ vài thập niên ngắn ngủi, ràng giữ hay không, có gì phải sợ?” Thẩm Thiều Quang cười cong khóe mày, khuôn mặt bừng sáng.

* Trích “Bài tự đêm xuân uống rượu trong vườn đào lý” của Lý Bạch, bản dịch của Nguyễn Hiến Lê.

Lâm Yến ngừng một hơi, nhìn dáng vẻ đắc ý của nàng, cuối cùng cong môi lên mỉm cười.

 

 

 

 

 

Đăng trong Tiệm cơm nhỏ thành Trường An - Bánh Anh Đào

Tiệm cơm – Chương 47

Chương 47: Trăng treo đầu cành liễu

Tháng giêng là tháng lễ hội, qua mồng bảy ngày Người được vài ngày là tới lập xuân, sau đó nữa là Tết Thượng Nguyên kéo dài suốt ba ngày ba đêm.

Ở thời này, tiết lập xuân có phong tục ăn đĩa xuân. Cái được gọi là đĩa xuân chẳng qua là dùng bánh bột mì cuốn rau để ăn.

Ở thời đại chẳng có nhà kính trồng rau như hiện giờ, khi mà nhiệt độ không khí xuống âm độ thì “rau xuân” nói cho đúng chẳng qua chỉ là một từ mang tính tượng trưng, phần lớn rau dùng để cuốn đều là các loại cải củ, cải thảo, hành được bảo quản qua mùa đông, kể cả ở trong cung thì cũng chỉ là thêm một ít rau cần, cọng tỏi non hay rau hẹ mà thôi.

Có thể có được một ít rau xanh trái mùa thật đúng là một chuyện khiến người ta vui mừng. Giống như mùa hè thích ban thưởng sữa bò ướp lạnh, cứ tới ngày lập xuân, hoàng đế đều phải ban thưởng đĩa xuân cho hoàng thân quốc thích và các đại thần để bày tỏ sự ưu ái. Ngự sử Chu Phụng Khanh có con trai đúng ngày lập xuân, lại vừa khéo được ban thưởng đĩa xuân, thế là đặt tên cho con trai là A Bàn, nghe có phần giống phong cách của Khổng Tử khi lấy tên cho con trai là “Lí”.

* “Bàn” nghĩa là đĩa; “Lí” nghĩa là cá chép.

Đĩa xuân dùng để ban thưởng trong cung được làm rất cầu kỳ. Rau được cắt thành sợi cực nhỏ, xếp riêng thành từng màu đỏ, trắng, xanh, vàng; bên cạnh đặt bốn, năm loại nước tương ăn kèm như tương mì, tương hẹ, thịt băm; lại có một đĩa riêng để đặt bánh bột mì, khác với bánh xuân kiểu nướng thời hiện đại, ở thời này bột làm bánh có thêm trứng gà, muối bột, dầu vừng trộn đều với nhau rồi đổ thành, vừa thơm vừa mềm.

Lúc trước còn ở trong ngự thiện phòng, Thẩm Thiều Quang có thể ăn được ba cái bánh cuốn to kiểu này, lại thêm một bát canh thịt dê.

Mặc dù bây giờ không có rau xanh trái mùa như thế nhưng cũng không còn bị trói buộc, Thẩm Thiều Quang liền thử phục chế món bánh xuân của thời hiện đại, còn về phần không đủ rau xanh thì… bù thịt vào thôi.

Trước tiên hãy nói về thứ bánh này, bánh đổ tuy làm nhanh nhưng bánh nướng dai hơn, thích hợp để cuốn đồ ăn hơn. Dùng nước nóng trộn bột mì, chia mì làm hai phần, ở giữa phết dầu, cán mỏng ra, đặt vào chảo gang đáy bằng rồi nướng với lửa nhỏ.

Các loại rau cũng không có gì mới mẻ, củ cải, cải thảo, hành bỏ vỏ, chỉ chọn phần non rồi cắt thành sợi nhỏ, thế là xong đĩa rau sống. Đồ ăn chín thì có các loại như trứng gà rán mỏng, giá xào, miến sợi, đậu phụ cắt sợi xào.

Tiếp nữa là các loại thịt, chân giò muối kinh điển, dạ dày lợn, gà xông khói, thịt muối tương, thậm chí là cả tai lợn má lợn, tất cả đều cắt sợi, đặt vào đĩa, người nào thích cái nào thì tự lấy là được.

Lúc ăn thì lấy hai lá bánh, bên trong phết nước tương, bỏ sợi hành, sợi củ cải, bỏ các loại thịt, bỏ trứng gà, mầm giá vào giữa, cuốn thành một cuộn, thế là có thể há miệng ra gặm.

* Bánh xuân của Thẩm Thiều Quang phỏng theo “bánh tráng” của Lương Thực Thu. Về rau xanh và đĩa xuân ở thời Đường có tra xét tư liệu nhưng không xác thực, có chi tiết tự suy luận. [tác giả]

Món đĩa xuân kiểu này vừa mở bán đã được nhiệt liệt hoan nghênh. Mặt bàn bày đầy từng đĩa từng đĩa, đủ mọi màu sắc, mùi thơm nức mũi, nhà bình thường làm đĩa xuân ăn làm gì có ai cầu kỳ đến độ có thể xưng là xa hoa như thế này? Mà quan trọng là giá cả cũng không đắt, dù sao thịt lợn cũng rất rẻ. Mà quan trọng hơn nữa là nó ngon thật, vốn dĩ chỉ là một món ăn cho đúng với phong tục ngày lễ, thế mà lại thành mỹ vị thật sự.

Món đĩa xuân vừa mở bán ngày đầu tiên đã bắt đầu đắt khách, dù đã qua lập xuân rồi nhưng cũng không ít người nghe tiếng tới nếm thử; ban đầu chỉ là ăn trong quán, sau lại có không ít người muốn mua về hoặc thậm chí là tặng cho người khác. Bán cho tới qua Tết Thượng Nguyên, mặc dù hơi trở ngại một chút nhưng Thẩm Thiều Quang cảm thấy chắc chắn sau lễ sẽ vẫn còn người liên tục tới ăn, dù sao thì vào tháng hai, tháng ba chính là mùa rau xuân, tới lúc đó thì bánh xuân mới thật là ngon.

“Tới lúc đó không thể dùng cải thảo với củ cải được, đổi thành hẹ xanh với trứng gà, cải bó xôi với miến sợi, thịt thái sợi với rau dền, nếu thêm một ít dưa chuột nữa thì món bánh xuân này…” Thẩm Thiều Quang vừa nặn bánh trôi vừa mặc sức tưởng tượng với A Viên.

A Viên nuốt nước bọt, tiếp lời: “Món bánh xuân này ta có thể ăn được tám, chín cuộn.”

Thẩm Thiều Quang: “…”

Thẩm Thiều Quang nhìn phần eo của A Viên: “A Viên à, ngươi đã từng nghe câu “Tháng hai ba bốn không giảm béo, tháng sáu bảy tám chỉ bi thương” chưa?”

A Viên lắc đầu rất dứt khoát: “Chưa nghe!”

Phía sau có tiếng phì cười, không cần ngoảnh đầu lại cũng biết là Vu Tam.

A Viên nghĩ ngợi một chút: “Chờ ăn xong đĩa xuân có cải bó xôi với dưa chuột rồi ta sẽ giảm.”

Thẩm Thiều Quang gật đầu, có cái hạn là được.

Phía sau có tiếng nói thản nhiên: “Chờ tới lúc ăn dưa chuột rồi thì ngươi đã ăn “đĩa hạ” rồi, sợ là tháng sáu bảy tám định sẵn phải bi thương rồi.”

A Viên tức giận trừng mắt nhìn Vu Tam, không thèm nói nữa.

Thực ra vừa rồi Thẩm Thiều Quang lỡ miệng mới nói vậy, bởi lẽ ở thời hiện đại, dưa chuột là thứ rất phổ biến, mỗi lần cuốn bánh xuân thì chắc chắn đều có.

Thẩm Thiều Quang quay đầu lườm cảnh cáo Vu Tam, nói đùa dỗ A Viên: “Thực ra mùa xuân cũng có dưa chuột, chỉ là hiếm có mà thôi. Lại nói lúc tiền triều…”

Chỉ cần nhắc tới “tiền triều” thì tức là cô nương đang chuẩn bị kể chuyện xưa, A Viên và A Xương đều vội vàng vểnh tai lên nghe, ngay cả Vu Tam cũng nhẹ tay hơn.

“Tết một năm nọ, thánh thượng muốn ăn dưa chuột, phái hoạn quan ra ngoài tìm mua. Giữa trời đông giá rét như vậy thì đi đâu mua được? Ấy thế mà lại tình cờ gặp được một người đang cầm hai quả dưa chuột đứng bán ở Đông Thị. Hoạn quan vui mừng quá đỗi, liền hỏi giá bán thế nào. Người bán dưa kia nói, năm mươi lạng bạc một quả, hai quả một trăm lạng.”

A Viên và A Xương đều há hốc mồm.

“Hoạn quan chê đắt, tới hè thì hai đồng mua được tận mấy quả. Người bán dưa nói, nếu chê đắt thì đừng có mua, ta giữ lại ta ăn. Nói xong thì thật sự cắn một quả nhai rau ráu.”

A Viên và A Xương càng há miệng lớn hơn nữa, A Xương lẩm bẩm: “Năm mươi lạng bạc cứ như vậy mà bị ăn mất…”

“Hoạn quan sốt ruột, sợ hắn ăn luôn quả còn lại, vội vàng lấy bạc ra muốn mua, nào ngờ người bán dưa kia lại nâng giá, quả còn lại bán một trăm lạng.”

Vu Tam nhếch mép lên, biết ngay là cô nương kể chuyện ắt phải có bẫy, quả nhiên…

“Hoạn quan lại chê đắt, người bán dưa kia nói “Nếu chê đắt…”, hoạn quan nghe được mấy chữ này thì vội vàng đưa tiền cho hắn, mua quả dưa chuột còn lại.”*

* Bắt nguồn từ “Vân Hương nói chuyện cái ăn” của Đặng Vân Hương, không rõ có xuất xứ cũ hơn hay không. [tác giả]

A Viên và A Xương cười ha ha, Vu Tam cũng bật cười, cúi đầu nặn bánh tiếp.

Thời này, Tết Thượng Nguyên còn chưa phải là thời mà bánh trôi nước thống trị toàn thiên hạ, mọi người ăn cháo thịt, mì tằm, bánh sợi hấp, bánh ngọc lương. Nào cháo, nào bánh hấp, bánh chiên, các loại thức ăn loạn chiến.

Đã loạn thế rồi thì cũng không sợ loạn thêm nữa, bánh trôi cũng phải hiện diện cho người ta biết mặt. Thẩm Thiều Quang cũng chỉ làm bánh trôi nhân vừng đen kinh điển, cũng đề cử cho các thực khách tới ăn cơm ngày Tết Thượng Nguyên.

Người thời này khá thiên vị đồ ngọt, đại đa số thực khách đều vui vẻ đón nhận món bánh trôi, ví dụ như Lâm thiếu doãn.

Tết Thượng Nguyên bỏ lệnh cấm đi đêm suốt ba ngày, không đóng cửa phường, toàn thành tha hồ vui chơi, “nhà nhà thắp đèn, nơi nơi sênh ca”. Người người nhà nhà vui chơi ăn uống trong phạm vi lớn suốt thời gian dài như vậy, trị an là một vấn đề lớn.

Cứ mỗi dịp này, trong kinh thành đều sẽ điều động rất nhiều cơ quan như Kim Ngô, Kinh Triệu để tránh các sơ suất lớn – còn mấy chuyện lặt vặt như tỳ nữ nhà ai bỏ trốn với người khác, nhà ai có trộm bị mất mấy đồng bạc thì khó mà tránh khỏi.

Lâm Yến là thiếu doãn phủ Kinh Triệu, là một trong những người phụ trách chủ chốt, phải trực suốt hai ngày liên tục, tới ngày thứ ba rốt cuộc cũng được nghỉ ngơi một chút. Ban đầu thì định ở nhà với bà nội – Giang thái phu nhân tuổi tác đã cao, chân tay lại không được tốt, mùa đông không thể ra khỏi cửa, không thể nào đi xem hoa đăng.

Nhưng thái phu nhân lại nhất quyết đuổi hắn ra ngoài: “Tết Nguyên Tiêu thì ra ngoài đi dạo một lát đi, cầu trừ tà ma, cầu phúc kiện thân.”

Lâm Yến không nỡ làm trái tấm lòng yêu thương của bà nội, đành phải cười đồng ý, định ra ngoài dạo quanh phường một vòng, ngắm cảnh một chút rồi về với bà nội.

Người ngắm hoa đăng trong phường không nhiều như tưởng tượng, bởi vì hôm nay đã là ngày thứ ba, nhiều người đã ngắm chán cảnh gần, rủ nhau đi chơi xa hơn, ví dụ như tới cửa An Phúc xem đạp ca*, tới Sùng Nhân Phường ở phụ cận xem tạp kỹ.

* Đạp ca là một điệu múa truyền thống của Trung Quốc, bắt nguồn từ thời nhà Hán và vô cùng thịnh hành vào thời Đường. Sở dĩ có tên gọi “đạp ca” là vì điệu múa này thường miêu tả cảnh du xuân đạp thanh thời cổ đại (đạp), và người ta vừa múa vừa hát cùng lúc (ca).

Không còn phải chen chúc chật chội nữa, Lâm Yến thấy đi dạo thế này tính ra cũng khá thú vị. Đứng ở đầu đường nhìn phía trước, hoa đăng treo dọc hai bên đường, sĩ tử chơi đoán đố đèn, tỳ nữ vây quanh cô nương nhà mình, tiểu đồng xách đèn lồng chạy đi chạy lại… Ngày lành cảnh đẹp, phồn thịnh yên vui.

47 đố đèn

* Đoán đố đèn (hay đố đèn) là một hoạt động vui chơi truyền thống của Trung Quốc vào lễ hoa đăng ngày Tết Nguyên Tiêu. Người ta viết câu đố trên giấy rồi dán lên đèn hoặc treo dưới đèn để người đi ngắm hoa đăng giải đố.

Đi thêm vài bước nữa thì nhìn thấy quán rượu Thẩm Ký.

Lâm Yến chậm rãi đi tới, ngẩng đầu nhìn hoa đăng treo trước cửa quán Thẩm Ký. Đèn thì chỉ là đèn hình trống thông thường, nhưng hoa thắng dán trên đó lại rất mới lạ, là hình hoành thánh, ngọc tiêm diện, gà nướng, xâu thịt các loại.

Lâm Yến không khỏi bật cười.

Vén rèm đi vào trong quán thì liền nghe được Thẩm cô nương đang cười nói: “Cái này gọi là bánh trôi mỹ nhân. Ngài nhìn xem, vỏ bánh này vừa trắng vừa mềm, có phải rất giống khuôn mặt của cô nương xinh đẹp không?”

Bà lão dẫn cháu nội tới ăn bánh ngọt bật cười thành tiếng: “Tên này đặt đúng lắm!”

Thẩm Thiều Quang chẳng qua chỉ đang nói đùa vậy thôi, lỡ như thi nhân nào ăn được món “bánh trôi mỹ nhân” này rồi làm bài thơ khen ngợi, người đời sau miêu tả mỹ nhân lại thêm một kiểu so sánh “da như vỏ bánh trôi” thì chẳng phải là tội lỗi của nàng lớn lắm sao.

Nghe tiếng mở cửa, Thẩm Thiều Quang ngẩng đầu lên, mỉm cười chào hỏi: “Lâm lang quân Tết Thượng Nguyên cát tường.”

Dáng vẻ tươi cười hiền hòa của Thẩm cô nương cùng với hoa thắng sống động ngoài cửa,  thêm cả danh xưng “bánh trôi mỹ nhân” này chính là lời giải thích tốt nhất cho cái được gọi là trong ngoài bất nhất. Cũng may Lâm Yến đã quen, cũng mỉm cười đáp: “Chủ quán Tết Thượng Nguyên cát tường.”

“Lâm lang quân có muốn nếm thử một ít bánh trôi nếp của quán bọn ta không? Bánh nhân vừng đen, vừa ngọt vừa thơm.”

Lâm Yến gật đầu: “Cũng được.”

Bánh trôi rất nhanh chín, chỉ một lát sau đã được bưng lên bàn.

Lâm Yến cầm thìa múc một cái, nhẹ nhàng cắn ra, đúng là mùi vị không tệ, rất ngon miệng.

Đôi bà cháu ngồi ở phía trong ăn xong đi ra ngoài: “Bà ơi, vị lang quân này cũng đang ăn mỹ nhân.”

“Không phải là mỹ nhân mà là “bánh trôi mỹ nhân”.” Bà lão dạy cháu trai.

“Thế cái gì là mỹ nhân?”

“Cô nương chủ quán này chính là mỹ nhân.”

Đứa bé gật đầu: “Cô nương rất ngon.”

Thẩm Thiều Quang đang thu dọn bát đĩa: “…”

Lâm Yến đang cắn dở chiếc bánh trôi: “…”

Thôi bỏ đi, lời con nít không chấp làm gì. Thẩm Thiều Quang bưng bát đũa vào bếp rửa.

Lâm Yến hơi mất tự nhiên liếc mắt nhìn theo bóng lưng Thẩm Thiều Quang, bỏ nửa cái bánh trôi trắng bóc nhân vừng đen ở trong thìa vào miệng, vị ngọt lan tràn giữa răng môi. Lâm Yến uống một ngụm nước canh, sắc mặt bình tĩnh trở lại, cái thứ trong ngoài bất nhất này thật sự có phần giống…

Thẩm Thiều Quang rửa bát xong, bưng một cái hộp nhỏ đi ra, bỏ vào trong đó mấy cái bánh trôi. Thấy Lâm Yến đã ăn hết bát bánh trôi: “Đã nhiều ngày không gặp thái phu nhân, không biết thái phu nhân có khỏe không? Đây là một ít bánh trôi nếp còn sống, nhân bánh giống nhau, chỉ là cách làm có hơi khác, phiền mang về cho thái phu nhân nếm thử.”

Lâm Yến cám ơn Thẩm Thiều Quang, muốn nói với nàng chuyện về mấy quyển sách của cha nàng, nhưng đề tài này hơi đột ngột, giữa ngày lễ vui vẻ thế này mà lại nhắc tới chuyện buồn bã như thế, Lâm Yến cũng không biết phải mở lời thế nào.

Thẩm Thiều Quang nhướng mày, tùy ý kiếm một đề tài: “Hôm nay trong phường ít người, mọi người đều đã tới cửa An Phúc xem đạp ca cả rồi, sao Lâm lang quân lại không đi xem?”

Thẩm Thiều Quang nghĩ bụng, với tính cách trầm lặng của vị này thì tám phần là một trạch nam, cho nên không thích ra ngoài đi lại, đương nhiên cũng có thể là dân tăng ca bán sức, những ngày toàn thành ăn chơi thả cửa thế này, thiếu doãn phủ Kinh Triệu như hắn lại chẳng được nghỉ ngơi, nói chưa chừng còn phải tăng ca mấy ngày, vất vả lắm mới rảnh rỗi một chút, hẳn là không thích chen lấn vào mấy chỗ đông người nữa.

“Hoa đăng trong phường cũng rất đẹp.” Lâm Yến mỉm cười nói.

Thẩm Thiều Quang gật đầu, đột nhiên cười hỏi: “Lúc trước ở cửa An Phúc, sao lang quân lại bỏ qua cho ta? Lúc đó ta còn tưởng là sắp bị đưa tới Lạc Dương cơ đấy.”

Trước kia Thẩm Thiều Quang cảm thấy có lẽ là hắn sợ gây rắc rối, sợ rước phải phiền phức, nhưng sau đó tiếp xúc với hắn, đặc biệt là lần trước nghe được cuộc nói chuyện của Lý tướng công với vị Lâm thiếu doãn này, biết lúc hắn còn giữ chức thấp đã từng làm chuyện tương tự như cha nàng ở kiếp này từng làm, như vậy chắc chắn không phải là kẻ nhát gan khéo đưa đẩy.

Đương nhiên là vận may của hắn rất tốt, hoặc cũng có lẽ là vì chức quan của hắn thấp, không chọc giận hoàng đế, không rước phải họa sát thân.

Cho dù là lý do nào đi chăng nữa thì suy đoán trước đó cũng không đúng, vừa rồi nhắc tới cửa An Phúc, Thẩm Thiều Quang đột nhiên muốn hỏi câu này.

Lâm Yến nhếch miệng: “Thánh thượng thả cung nhân ra khỏi cung là làm việc đức, là muốn bớt đi tiếng oán niệm chốn hậu cung, cô nương có mưu lược, cớ gì không thành toàn cho cô nương?”

Nghĩ ngợi một lúc, Thẩm Thiều Quang bật cười, cúi đầu thi lễ với hắn: “Đa tạ lang quân nhân hậu hiền lành.”

Lời cảm ơn này trong hư có thật, trong thật lại có hư, như bàn tay cầm cành liễu phất phơ của các cao nhân trong truyền kỳ. Lâm Yến bật cười, không biết mồm mép nàng thế này là từ nhỏ đã vậy hay là được tôi luyện trong cung.

Nếu đã nhắc tới chuyện ở cửa An Phúc, Lâm Yến cũng thuận thế tiếp lời: “Năm mới quét dọn nhà cửa, tìm được một ít sách của lệnh tôn ở trong nhà. Hôm khác ta sẽ cho người đưa tới cho cô nương.”

Thẩm Thiều Quang ngạc nhiên ngước mắt lên, gật đầu nói cảm ơn, vừa rồi còn vui vẻ hoạt bát, giờ bỗng chốc trở nên trầm lặng.

Lâm Yến muốn an ủi nàng vài câu, nhưng suy cho cùng thì cũng không quen thân, mà nỗi đau mất người thân thì không phải vài câu an ủi thường thường là có thể vơi bớt được, nhưng nếu bây giờ mà đứng lên nói cáo biệt ra về hay nói cái khác thì lại không thích hợp, thế là chỉ có thể ngồi yên lặng cạnh nàng.

Vu Tam, A Viên, A Xương từ bên ngoài về, vừa nhấc rèm lên đã chứng kiến cảnh tượng như vậy, dưới ánh đèn, lang quân nghiêm cẩn và cô nương xinh đẹp yên lặng ngồi đối diện nhau.

Mới hôm nay cô nương còn chọc ghẹo gì mà “Nguyệt thượng liễu tiêu đầu, nhân ước hoàng hôn hậu*” cơ đấy. Vu Tam lại liếc mắt nhìn Lâm Yến, tính ra thì cũng ra dáng…

* Trích “Sinh tra tử – Đêm Nguyên Tiêu” của Âu Dương Tu, dịch nghĩa là: Mặt trăng nhô lên ngọn cây liễu, người hẹn sau lúc hoàng hôn.

“Cô nương, lầu đèn đó cao tận mấy trượng, treo tận mấy trăm cái đèn…” A Viên kích động khoe khoang.

Thẩm Thiều Quang quay đầu cười hỏi: “Thật sao? Nghe nói là có luân đăng quay được, có thật không?”

47 lập xuân

 

 

Đăng trong Tiệm cơm nhỏ thành Trường An - Bánh Anh Đào

Tiệm cơm – Chương 46

Chương 46: Bếp lại đỏ lửa

Mồng hai, Thẩm Thiều Quang tới am Quang Minh ngồi nói chuyện với Viên Giác sư thái cả một buổi.

“Bánh Kinh” của Viên Giác sư thái đã hoàn thành sơ bộ, trong đó miêu tả đủ các loại bánh canh, bánh nướng áp chảo, bánh hấp, bánh nướng, có bánh trắng từ tim bò của các nhà quyền quý trong kinh thành, có bánh nhụy từ hoa đào trong các quán rượu nhỏ ở Giang Nam, cũng có bánh nướng vừng nặng chừng mười cân của một người đàn ông để râu quai nón bày bán bên cạnh Dương Quan.

Lão sư thái không chỉ nói về các loại bánh mà còn nói về người, về cảnh, kể lại những năm tháng rực rỡ một đi không trở lại, Thẩm Thiều Quang đọc mà có thể nhìn ra được sự phồn hoa hưng thịnh của thời Đại Đường.

Bây giờ Thẩm Thiều Quang cũng chẳng nịnh nọt nữa, chỉ khẽ cảm khái: “Thật là tốt, thật là tốt…”

Viên Giác sư thái nhìn nàng, chậm rãi nở nụ cười.

Ngày mồng ba, Thẩm Thiều Quang cũng theo lệ đi một vòng các nhà hàng xóm, nói vài câu chúc tết, tặng chút lễ mọn, ăn kẹo nhà người ta.

Cầu gia phường đậu phụ nhất quyết lôi kéo Thẩm Thiều Quang ở lại ăn cơm bằng được. Nương tử Cầu gia dùng nấm rừng hầm với gà mái, không bỏ nhiều gia vị, cũng không kĩ càng tinh tế như Thẩm Thiều Quang, một tô đựng thịt đang bốc hơi nghi ngút, nước dùng thì đặc sánh. Lại chuẩn bị thêm một ít đậu phụ chiên, thịt dê hấp.

Ông cụ Cầu gia liên tục mời mọc: “Cô nương nếm thử món gà này xem”, “Cô nương nếm thử xem thịt dê hấp này có mềm không?”, “Cô nương nếm thử món thịt viên ngon miệng đại nương nhà ta nấu thử xem”…

Thẩm Ký là khách hàng lớn của phường đậu phụ Cầu gia, Thẩm Thiều Quang lại chỉ cho bọn họ gia vị thế nào cho vừa, phát triển thêm các loại váng đậu, đậu phụ khô, dầu đậu nành, nhờ vậy mà Cầu gia kiếm được thêm không ít tiền, lần này là mượn dịp mừng năm mới để cảm ơn nàng.

Nương tử Cầu gia nhìn thì chân chất thật thà nhưng miệng lưỡi lại rất khéo: “A gia lại nói đùa rồi! Ở trước mặt Thẩm cô nương đây, chỉ như ta thì nào dám xưng là “ngon”?” Sau đó lại nói với Thẩm Thiều Quang: “Làm không được tinh tế nhưng cũng mong cô nương đừng chê cười, nhất định phải ăn no đấy.”

Để tỏ ý mình thật sự yêu thích tay nghề của nương tử Cầu gia, Thẩm Thiều Quang thật sự đã ăn không ít, còn khen ngợi một phen, Cầu nương tử cười đến nỗi hai mắt híp thành đường thẳng.

Buổi trưa ăn một bữa no nê, tối về chỉ ăn một bát cháo nhỏ kèm món dưa muối do công chúa Vu Tam chuẩn bị.

Trong khoản muối dưa này, Vu Tam làm rất có phong phạm quý tộc. Từng đĩa từng đĩa nhỏ cũng có tới sáu bảy loại, có cải thảo muối, củ cải muối, dưa chuột muối, gừng tím muối, có sợi cũng có khối, có món thì thêm dầu vừng, có món lại trộn giấm chua, có món thì trộn tương vừng và tỏi giã…*

* Món dưa muối tham khảo “Say cũng chán” của Diệp Quảng Cầm. [tác giả]

Mỗi loại Thẩm Thiều Quang ăn vài ba đũa, cũng vừa đủ ăn hết một bát cháo, dạ dày cũng thoải mái.

Cứ ăn uống lộn xộn như vậy mấy ngày, chơi đến nỗi chân tay đều sinh lười, cuối cùng cũng đã tới ngày mồng sáu mở quán – ở thời này còn chưa có quan niệm đón thần tài, phần lớn các cửa hàng đều chờ qua mồng năm là mở cửa, thậm chí còn có không ít cửa hàng chờ qua tết Nguyên Tiêu mới mở cửa.

Thẩm Thiều Quang và mấy người A Viên, Vu Tam quét dọn sạch sẽ trong quán một lượt, treo pháo lên cửa rồi đốt, thế là quán rượu nhỏ bắt đầu một năm mới.

Thấy Thẩm Ký mở cửa, các khách cũ lập tức chạy tới.

Thẩm Thiều Quang nói mấy câu chúc mừng năm mới, các thực khách cũng đáp lại, lại nói: “Mấy ngày này đúng là rất nhớ đồ ăn Thẩm Ký. Hôm qua đi ăn tiệc đầu năm, trong tiệc cũng có món lẩu, chỉ là kém xa lẩu ở đây.”

“Bao nhiêu ngày rồi chỉ ăn thịt với cá, thật đúng là nhớ cái món cải thảo chua ngọt của Vu Tam lang.”

Thậm chí còn có người dứt khoát dời luôn bữa tiệc đầu năm trong nhà mình tới đây, gọi toàn các món kinh điển như là “thịt mã não”, “sư tử đầu”, “gà chiên giòn”, “thịt phù dung”, “đậu phụ bát bảo”, lại thêm một giác lục nghị mới cất, cuối cùng còn gọi thêm hai lồng ngọc tiêm diện, cả chủ lẫn khách đều ăn uống vui vẻ.

Mới ngày đầu mở cửa trở lại mà công việc đã lu bù, tới tận tối Thẩm Thiều Quang mới có thời gian rảnh rỗi mà cắt hoa thắng.

* Hoa thắng vốn chỉ các loại trang sức hình hoa mà phụ nữ Hán thời xưa đội trên đầu. Hoa thắng ở đây chỉ các vật trang trí (thường là hình hoa) được cắt từ giấy hoặc các chất liệu mỏng khác, thường được dán lên tường, lên cửa sổ.

Tới thời hiện đại thì tục lệ mồng bảy ngày Người đã dần suy thoái, không còn là ngày lễ phổ biến khắp cả nước nữa, nhưng thời này thì vẫn còn rất long trọng.

Cái gọi là “ngày Người” thì nghe bảo là bắt nguồn từ truyền thuyết Nữ Oa tạo người. Người ta kể là Nữ Oa nương nương mồng một tạo gà, mồng hai tạo chó, sau đó lần lượt tạo các loại động vật lợn, dê, trâu, ngựa, tới ngày thứ bảy thì rốt cuộc cũng tích lũy đủ kinh nghiệm phong phú, tạo ra được loài người thông minh, cho nên ngày mồng bảy được gọi là “ngày Người”.

Vào ngày Người, tục lệ phổ biến nhất là dùng giấy thếp vàng, tơ lụa, giấy màu các loại, hoặc cắt, hoặc gấp, hoặc tết thành hoa thắng, sau đó mang dán lên bình phong, cửa sổ hoặc đội trên đầu.

Trong cung cực kỳ coi trọng mấy thứ tinh xảo xinh đẹp tỏ rõ tay nghề như thế này, hằng năm bọn họ đều nghĩ ra nhiều kiểu hình dạng mới, một phần là để thể hiện tay nghề, lấy lòng quý nhân, một phần cũng là để giết thời gian.

Thẩm Thiều Quang dồn gần hết kỹ năng vào nấu nướng, cũng dành một chút cho văn chương sách vở, cho nên mấy khâu may vá thêu thùa của nữ tử thì nàng không mấy thành thạo, nhưng khoản cắt giấy này thì lại rất tốt, cho nên Thẩm Thiều Quang vẫn luôn kiên định rằng mình có một đôi tay khéo léo, may vá không tốt chỉ là do không có thời gian luyện tập mà thôi.

Lúc còn ở trong cung, tranh ngũ cốc được mùa, rau quả tốt tươi do Thẩm Thiều Quang cắt chính là sản phẩm đại diện tạo nên tiếng tăm cho ngự thiện phòng, ngày hôm đó bất cứ người nào đi lĩnh đồ ăn cũng phải “tấm tắc” vài tiếng.

Nhân thắng, hoa thắng của các cung nữ khác phần lớn đều nhỏ nhỏ xinh xinh, nhưng hoa thắng của Thẩm Thiều Quang thì lại rất lớn, không chỉ lớn mà còn cầu kỳ tỉ mỉ, trong bức tranh rau quả kia có không dưới hai mươi loại rau quả, nho đặt cạnh lê, dưa hấu che mất một phần anh đào, sắp xếp đan xen vào nhau một cách hài hòa, không hề lộn xộn chút nào.

Có thể cắt được một bức tranh phức tạp như vậy chủ yếu vẫn là nhờ công lao mấy tiết mỹ thuật tạo hình, xử lý cho tốt vấn đề kết cấu rồi thì sau đó chỉ cần cẩn thận và tỉ mỉ là được, thật ra kỹ năng dùng kéo và cắt giấy cũng không khó học.

Thẩm Thiều Quang cắt mấy bông hoa đơn giản để luyện tay trước, thấy A Viên ở bên cạnh lại chợt nổi hứng đùa giỡn, thế là cắt một bức nhân thắng mập mạp, búi tóc hai vòng, tay xoa thắt lưng đưa cho nàng ta.

A Viên thích không nỡ buông tay, cẩn thận cầm lấy: “Thật là đẹp mắt… Thật là đẹp mắt…”

Cả Vu Tam và A Xương đều rất ngạc nhiên trước tay nghề của Thẩm Thiều Quang. Vu Tam cầm lấy bức hoa sen Thẩm Thiều Quang vừa cắt xong, liếc nàng một cái: “Còn có cả bản lĩnh này…”

A Xương cũng cười nói: “Thật không ngờ là cô nương lại khéo tay như vậy.”

A Viên dời mắt khỏi nhân thắng cắt chính mình, ngẩng đầu lên, vẻ mặt hết sức đương nhiên: “Cái này thì đã là gì? Cái gì cô nương cũng làm được!”

Kiểu fan mù quáng như A Viên thế này làm Thẩm Thiều Quang có cảm giác áp lực gấp bội, đang định giải thích vài câu thì Vu Tam đã nói bóng nói gió: “Đúng vậy, cái gì cũng làm được. Xuân phiên bên ngoài kia cũng khóc luôn.”

Thẩm Thiều Quang: “…”

A Xương cười trộm.

A Viên hết sức căm phẫn: “Xuân phiên làm sao hả? Xuân phiên làm sao hả? Có thể bay là được rồi chứ hả?”

Nhìn thấy thực lực của fan hâm mộ nhà mình, Thẩm Thiều Quang không giải thích nữa, híp mắt cười, yên tâm cắt tranh rau quả tốt tươi.

Bởi vì không phải là lần đầu cắt tranh thế này, bản vẽ tốn mất hai ngày tết để vẽ đã vẽ xong, bây giờ chỉ cần kiên trì dùng kéo từ từ mà cắt là được.

Dù vậy thì cũng phải tới tận nửa đêm mới hoàn thành cả bức tranh. Thẩm Thiều Quang không cho A Viên thức cùng mình, A Viên lại giữ vững nguyên tắc của một fan trung thành, khoác chăn ngồi trên giường xem Thẩm Thiều Quang cắt, mãi tới lúc thật sự không kiên trì nổi nữa mới nghiêng đầu xuống gối.

Sáng sớm hôm sau, đến cơm A Viên cũng chẳng vội ăn, chỉ lo đi dán bức tranh to đùng này.

A Viên hỏi Thẩm Thiều Quang xem dán chỗ nào, Thẩm Thiều Quang cười đáp: “Dán ở bên ngoài tường, ở chỗ ông cụ hôm trước dán giấy tìm chó ấy, còn cả chỗ Sở cô nương dán giấy tìm người nữa.”

“Được rồi!”

Mấy bông hoa đóa hoa khác thì A Viên đều dán hết lên cửa sổ, lên bình phong và vách ngăn trong quán – chỉ trừ bức nhân thắng mập mạp kia thì bị giấu đi.

Nhân thắng cắt từ giấy đỏ rất bắt mắt, bất cứ người nào đi ngang qua cũng phải ngoái đầu lại nhìn, sau đó thì biết là quán rượu Thẩm Ký đã mở cửa trở lại, sau đó lại nhớ tới các món ăn ngon của Thẩm Ký. Cái con sâu tên thèm ăn này, không lôi nó ra thì không sao, nhưng đã lôi nó ra mà không thỏa mãn nó thì không thể nào về được. Trước sau tết đã bao nhiêu ngày không tới Thẩm Ký ăn, đúng là thật sự rất thèm.

Nếu nói hôm qua mấy người tới đây đều là fan trung thành của Thẩm Ký thì hôm nay, phần lớn đội ngũ fan hùng hậu đã chính thức trở lại. Thẩm Ký lại lần nữa chật ních.

Quán rượu Vân Lai thì còn chưa mở cửa – bởi lẽ ngày tết, phần lớn mọi người đều chọn ở nhà đãi khách, người ra ngoài ăn rất ít, vì vậy hằng năm cứ qua mồng mười mới mở cửa trở lại. Phùng chưởng quỹ đi bộ loanh quanh trong phường, nhìn thấy đám hồng, sơn tra, dưa hấu đỏ rực trên tường và cả đám khách đi ra đi vào liên tục, bất đắc dĩ lắc đầu, rời đi.

 

Đăng trong Tiệm cơm nhỏ thành Trường An - Bánh Anh Đào

Tiệm cơm – Chương 45

Chương 45: Mồng một đầu năm đi lễ chùa

Hôm sau lúc Thẩm Thiều Quang tỉnh lại thì bên ngoài trời đã sáng trưng, lắc lắc đầu, hai bên huyệt thái dương hơi đau, có thể thấy là hôm qua thật sự đã uống quá nhiều. Liếc mắt nhìn A Viên vẫn đang ngủ ngon lành trên chiếc giường phía bên kia, Thẩm Thiều Quang yên lặng rời giường, đi ra bên ngoài rửa mặt.

Vừa mở cửa phòng thì đã thấy ngoài cửa đặt sẵn siêu nước nóng, chẳng lẽ công chúa Vu Tam đã dậy rồi sao?

Thẩm Thiều Quang cười híp mắt xách nước nóng vào, pha nước rửa mặt, đánh răng, thoa sáp lên mặt, sau đó kẻ lông mày, chấm một ít son đỏ, vẽ hoa điền, còn mấy khâu như thoa phấn trắng, tô son, vẽ lúm đồng tiền gì đó thì thôi miễn.

Ở thời này trang điểm là một chuyện thử thách sức tưởng tượng của nữ tử, lưu hành đủ các kiểu phong cách quái dị, ngay cả người từng trải nghiệm quần ma loạn vũ thời hiện đại như Thẩm Thiều Quang cũng thường xuyên phải líu lưỡi.

Ví dụ như mày liên quyên rất thịnh hành thời gian trước – hai hàng mi được vẽ gần như dính sát vào nhau, hoặc chẳng hạn như đề mi hai năm trước, hai hàng mày mảnh rũ xuống, cái nào cũng giống như chực khóc, tính ra thì cũng rất phù hợp với bầu không khí lúc bấy giờ khi tiên đế mới mất, rồi còn cả kiểu mày cánh bướm, môi đen thẫm rất buồn cười… Chẳng có kiểu nào mà các tiểu tỷ tỷ thời này không nghĩ ra được hay là không dám trang điểm.

Lúc còn ở trong cung, không ít lần Thẩm Thiều Quang buộc phải theo trào lưu, khi mà mọi người đều theo mốt, ngươi đi ngược mốt thì chính là lạc đàn. Không thấy Quắc Quốc phu nhân để mặt mộc một hôm mà đến cả đám thi nhân cũng lôi ra nói mãi đấy sao? Không giống người bình thường là không được, ẩn dật mới sáng suốt.

Xuất cung rồi, rời xa chốn cung đình thời thượng, mặt của Thẩm Thiều Quang lại trở về bình thường, đây là lần đầu tiên nàng lục lại tay nghề của mình.

Thẩm Thiều Quang tự trang điểm cho mình, hình dáng lông mày vốn đã tốt, chỉ cần tô thêm chút nữa là được; màu môi hơi nhạt, phải đậm hơn chút; hoa điền không kịp làm, chỉ có thể dùng bút chấm chu sa vẽ lên trán một đóa hoa mai cho hợp với tình hình, lại cũng hợp với bộ váy màu lựu trên người, thật sự trông khá vui mừng, như tân nương vậy…

Vừa sáng mồng một đầu năm cẩu độc thân đã tự tìm chuyện hành mình.

Thẩm Thiều Quang chép miệng, tự vấn cho mình một búi tóc kiểu hai vòng tròn lồng vào nhau, cài thêm cây thoa, sửa soạn xong xuôi đâu vào đấy, nhìn mỹ nhân thấp thoáng trước gương đồng, lấy lại được chút tự tin, cẩu độc thân thì sao chứ, cho dù có là cẩu độc thân thì ta cũng là cẩu độc thân xinh đẹp nhất.

“Vượng…”

Ngẩng đầu lên thì thấy A Viên mặt mũi mơ màng ngái ngủ.

“Nào nào, đi rửa mặt đi, rồi ta chỉnh đốn cho ngươi.”

Nghe cô nương nói muốn trang điểm cho mình, A Viên mất sạch cảm giác buồn ngủ: “Không cần! Không cần!”

Thẩm Thiều Quang cười nhe răng.

Dù A Viên có giá trị sức mạnh cao nhưng cũng không thể mạnh tay với cô nương nhà mình, cuối cùng vẫn bị Thẩm Thiều Quang kéo xuống ngồi trước gương đồng.

“Ngửa đầu… Nhắm mắt… Hé miệng… Mím cái nữa…”

Thẩm Thiều Quang trang điểm cho A Viên đủ bộ, tóc cũng chải lại, không ngờ lại đạt được kết quả đẹp ngoài ý muốn, khuôn mặt tròn trịa, dáng người mập mạp, mày thúy môi hồng, hai lúm đồng tiền đáng yêu, rất giống tượng gốm kỷ niệm nàng mua ở bảo tàng Thiểm Tây năm nào đó, đây mới là một cô nương Đại Đường bản địa.

Thẩm Thiều Quang đưa gương đồng cho A Viên tự xem: “Thấy có đẹp không? Thấy có đẹp không?”

A Viên hơi mất tự nhiên mím môi một cái, lẩm bẩm: “Đẹp thì đẹp, nhưng mà lát nữa làm sao ăn cơm được đây?”

Ha ha ha… Thẩm Thiều Quang úp mặt lên vai A Viên phì cười.

A Viên tự cầm gương, nhìn trái nhìn phải, cũng nhếch môi bật cười.

“Cốc cốc cốc”, Vu Tam đập lên cửa mấy tiếng, vén rèm đi vào, nhìn hai người trang điểm kĩ càng kia, thản nhiên nói: “Đi ăn sáng đã.”

A Viên vui vẻ nhảy nhót: “Đi ăn sáng thôi!”

Vu Tam nhìn A Viên, nhíu mày: “Ngươi như vậy không sợ dính lên bánh sao?”

A Viên: “…”

A Xương cầm gậy trúc đi tới hỏi Thẩm Thiều Quang xem bao giờ thì đốt pháo, nhìn thấy A Viên đi ra khỏi cửa phòng trước thì khen ngợi: “Đẹp! Đẹp!”

Mặt mày A Viên hớn ha hớn hở.

“Nhưng mà sợ là lát nữa ăn sẽ bị dính lên bát…”

Trong phòng, Thẩm Thiều Quang cười đau cả bụng, đây chính là kiểu không phải người một nhà không vào cùng một cửa trong truyền thuyết sao?

Vu Tam liếc mắt nhìn Thẩm Thiều Quang, ánh mắt cứ như phụ huynh nhìn đứa bé hư bày dại cho con cái nhà mình vậy. Nếu có thể chụp làm gói biểu cảm thì chắc chắn sẽ đính kèm mấy chữ: “Sau này đừng có chơi với người này nữa!”

Vu Tam cũng lười nhìn cô nương nổi tính thần kinh, vén rèm đi thẳng ra ngoài.

Thẩm Thiều Quang cười, đi tới tủ lấy ra mấy cái hầu bao, bên trong đựng mấy thỏi bạc mang về từ Lâm gia hôm đó, còn có một túi khác đựng tiền lẻ, mọi người chia nhau, lát nữa ra ngoài đi dạo thì mua chút đồ lặt vặt.

Đám người A Viên Vu Tam đều có tiền tiêu vặt hằng tháng, nhưng Thẩm Thiều Quang nhiều tiền, để bọn họ để dành tiền tiêu vặt riêng, chi tiêu bình thường đều cố gắng do nàng lo liệu hết.

Thấy Thẩm Thiều Quang đi ra, A Xương châm lửa, tách tách tách tách, tiếng pháo trúc giòn vang.

Vu Tam cầm gậy treo lá xuân phiên do Thẩm Thiều Quang may lên giữa sân, bốn người nhìn đám pháo trúc đã cháy gần hết, lại nhìn nhìn lá xuân phiên phất phơ giữa gió bấc, hài lòng đi ra quán ăn sáng.

Trước lúc ăn cơm, Thẩm Thiều Quang phát tiền mừng tuổi trước, lại còn vừa phát vừa nói mấy câu cát tường kiểu “trừ ma đuổi tà, năm mới cát tường” hay “năm mới may mắn, vạn sự như ý”.

Ở thời này còn chưa có tập tục tặng tiền mừng tuổi, A Viên chớp chớp đôi mắt được trang điểm tỉ mỉ của mình, tới lúc nhìn rõ thỏi bạc nhỏ bên trong thì ôi chao một tiếng – thỏi bạc này đẹp mắt quá! Y như bông hoa mẫu đơn vậy.

A Xương cũng phụ họa: “Thật là đẹp mắt!”

Vu Tam liếc mắt nhìn con cá bạc lớn chừng một tấc, không biết là nhớ tới cái gì mà có vẻ hơi buồn bã.

Vì hôm qua ăn nhiều thịt cá, lại uống rượu cả đêm nên cơm sáng hôm nay rất thanh đạm.

45 bánh vòng

Có cháo đặc, gà luộc, còn có bánh vừng nhỏ chỉ lớn cỡ lòng bàn tay, từng vòng từng vòng, cho tương vừng và muối tiêu lên cuộn lại đặt lên chảo gang nướng chín, vừa xốp vừa thơm, khá giống bánh cuộn truyền thống của Bắc Kinh. Đồ ăn kèm là đậu nành muối da lợn và củ cải muối trộn dầu vừng.

Sáng mồng một tết ăn cháo kèm rau muối, Thẩm Thiều Quang cảm thấy thật hạnh phúc.

Sau đó lại nhớ tới vị Lâm thiếu doãn thích điều tra độ hạnh phúc kia, nếu bây giờ mà hắn tới hỏi thì nàng nhất định sẽ rất chân thành nói với hắn rằng rất tốt, thực sự vô cùng tốt.

Đương nhiên, hôm nay vị kia sẽ không đến điều tra độ hạnh phúc, bây giờ đang là hội triều mà, đó là ngày hội lớn mỗi năm một lần cực kỳ phí sức, đã từng có vụ một lão tể tướng thực sự nhịn không được mà ngất xỉu ngay trong hội.

Thẩm Thiều Quang thì lại rất rảnh rỗi. Ngày mồng một vốn là để đi chúc tết người thân trong họ, người ngoài sẽ không tới làm phiền. Hàng xóm thì chờ tới mồng ba, mồng bốn tới ghé thăm một lát là được. Còn như am Quang Minh thì hôm nay trong am có pháp hội, Viên Giác sư thái cũng không rảnh rỗi, để mai lại tới thì hơn.

Nghĩ tới pháp hội, Thẩm Thiều Quang liền cân nhắc dẫn mấy người A Viên tới chùa Thanh Long chơi, pháp hội mừng năm mới ở đó rất náo nhiệt, không biết có sánh ngang cảnh tranh cướp bát hương đầu tiên ở thời hiện đại hay không?

Thẩm Thiều Quang dâng hương cho cha mẹ và huynh trưởng ở kiếp này trước, đổi đồ cúng, đốt tiền giấy, sau đó dẫn bọn A Viên ra ngoài.

Phường Sùng Hiền ở phía tây, chùa Thanh Long ở phía đông, nhưng mà lại thẳng đường, tính khoảng cách cũng không xa lắm, đi một hồi là đã tới.

Chùa Thanh Long không hổ danh là chùa nổi tiếng, quả thật rất náo nhiệt, nhưng nếu so với cảnh tượng chen chúc tấp nập ở thời hiện đại thì còn kém xa. Điều khiến Thẩm Thiều Quang vui mừng là mồng một đầu năm mà trên đường trước cửa chùa lại có bán đồ ăn vặt. Chắc hẳn đây chính là hình thức ban đầu của hội chùa ở thời sau đây nhỉ?

Thẩm Thiều Quang mua một rổ kẹo mứt hoa quả, có mơ ngâm đường, mứt hạnh, mứt táo, mứt bí đao, có loại ngào đường có loại ngào mật, đủ hình đủ dáng, màu sắc đẹp mắt, nhìn mà chảy cả nước miếng – cho nên có thể thấy là trông mai giải khát* cũng không phải chuyện bịa đặt.

* Điển cố “trông mai giải khát”: Tào Tháo thấy quân lính trên đường hành quân rất khát thì bảo rằng họ sắp sửa hành quân qua rừng mơ; nghe vậy, ai nấy đều ứa nước miếng và cảm thấy đỡ khát hẳn. Cụm từ này được ví với việc dùng ảo tưởng để tự an ủi.

A Viên ôm rổ mứt kẹo này, vừa đi vừa ăn, Thẩm Thiều Quang thỉnh thoảng lấy một miếng cho vào miệng. Vu Tam không ăn, A Xương cũng không tiện giành ăn với cô nương nên không thể không nhịn, lại thấy trước mặt xuất hiện một bàn tay… chứa đầy mứt hạnh, mứt bí đao.

A Xương ngẩng đầu, cười hì hì với Thẩm Thiều Quang.

Vu Tam liếc mắt nhìn ba kẻ đi đến đâu cũng ăn hàng này, không nói gì.

“Thẩm cô nương!”

Thẩm Thiều Quang quay đầu, là người tỳ nữ thích dùng lỗ mũi nhìn người của Bàng nhị nương.

“Cô nương nhà ta ở đằng kia!”

Thẩm Thiều Quang nhìn theo tầm mắt nàng ta, một cô nương đội mũ có màn che dẫn theo một đám tỳ nữ đang đứng ở cách cửa chùa không xa.

Bàng nhị nương vẫy tay với Thẩm Thiều Quang.

Thẩm Thiều Quang dẫn bọn A Viên đi tới. Hai người đối diện hành lễ chào hỏi nhau, Bàng nhị nương cười hỏi: “Ngươi cũng tới để xin xăm sao?”

Thẩm Thiều Quang nhướng mày hỏi: “Là sao?”

“Hằng năm chỉ có ngày mồng một tết thì Trần đại sư mới giải xăm, nếu bỏ lỡ thì chỉ có thể chờ tới sang năm.”

Thẩm Thiều Quang cười hỏi: “Nhị nương đã cầu đại sư giải xong xăm, hay là vẫn còn chưa đi?”

“Đã giải xong rồi.” Bàng nhị nương cười híp mắt đáp.

“Chắc hẳn là một thẻ tốt.” Thẩm Thiều Quang trêu ghẹo.

Bàng nhị nương cười híp mắt gật đầu: “Ừ.”

Thật là tốt… Nhìn dáng vẻ hạnh phúc của tiểu cô nương, Thẩm Thiều Quang cũng cảm thấy hạnh phúc.

Bàng nhị nương là người không giữ được chuyện trong bụng, liền ghé sát tới cạnh Thẩm Thiều Quang, thấp giọng nói: “Ngươi biết rồi chứ, Tần ngũ nương đính hôn rồi.”

Thẩm Thiều Quang hơi ngạc nhiên, với Lâm thiếu doãn hay là với người khác? Nhìn dáng vẻ vui mừng thế này của Bàng nhị nương thì chắc hẳn là với người khác rồi, cho nên cũng vì vậy mà Bàng nhị nương vừa sáng mồng một đã chạy tới đây xin xăm. Rút được thẻ tốt, lại được lão hòa thượng nói vài câu cát tường, tiểu cô nương lại càng vui vẻ hơn.

Thẩm Thiều Quang đã đoán được tám, chín phần mười.

Không chờ Thẩm Thiều Quang tiếp lời, Bàng nhị nương đã nhỏ giọng nói tiếp: “Với cháu trai trưởng của Tín Dương Công, là thám hoa lang năm ngoái, nghe nói là mới nhận chức giáo thư lang.”

Tín Dương Công, xuất thân từ Dương thị ở Lũng Tây, là danh gia vọng tộc đã trăm năm, lại có chức tước, vị cháu trai trưởng này nhận chức lại không phải là thừa kế tước vị tổ tông mà là xuất thân từ khoa cử, ừm, là một mối tốt.

Thấy Thẩm Thiều Quang gật đầu, Bàng nhị nương nhếch miệng cười nói: “Đúng là mừng cho ngũ nương.”

Tiểu nha đầu bụng nghĩ một đằng mồm nói một nẻo này… Thẩm Thiều Quang bật cười.

Bàng nhị nương không ở lại lâu nữa, nói với Thẩm Thiều Quang thêm vài câu, hẹn mấy ngày nữa tới am Quang Minh lễ Phật trọ lại sẽ gặp nhau, sau đó lên xe ra về.

Nghe xong bát quái về người khác rồi, nhìn theo Bàng nhị nương đi xa, Thẩm Thiều Quang dẫn bọn A Viên vào trong chùa, đi một vòng, nghe giảng kinh một hồi, xem tháp Phật, thơ khắc trên tường, cũng theo người ta tới điện thờ xin xăm.

Rút xăm thì dễ, nhưng đúng như Bàng nhị nương đã nói, giải xăm lại khó. Liếc mắt nhìn đoàn người chờ giải xăm có thể sánh ngang hàng người chờ mua vé tết ở thời hiện đại, Thẩm Thiều Quang trả lại thẻ xăm cho tăng nhân rút xăm.

“Thí chủ không đi xin giải xăm sao?”

“Dù sao cũng là số mệnh đã định sẵn, biết sớm hay biết muộn thì cũng như nhau.” Thẩm Thiều Quang cười nói.

Tăng nhân quản việc rút xăm chắp tay hành lễ: “Thiện tai, lời thí chủ nói rất hợp với ý nhà Phật.”

Thẩm Thiều Quang cười híp mắt, cũng chắp tay đáp lễ, sau đó dẫn mấy người A Viên ra về.

Ra khỏi chùa, tới một sạp ngoài đường ăn hoành thánh, lại lên Du Nguyên chơi một vòng, tới nửa chiều thì bắt đầu đi về. Về tới phường Sùng Hiền thì vừa lúc trống chiều vang lên.

Trước cửa phường, xe chậm lại, Lâm Yến vén rèm xe thì thấy Thẩm cô nương mệt nhoài cùng mấy người tỳ nữ nô bộc của nàng.

Thẩm Thiều Quang ngước mắt lên, cũng nhìn thấy Lâm Yến ở trong xe.

Hai người một thì chân tay mỏi nhừ, son phấn tàn tạ, một thì vất vả cả ngày, mặt lộ rõ vẻ mỏi mệt, gặp nhau trước cửa phường lúc bóng chiều vừa ngả, Thẩm Thiều Quang mỉm cười trước, có lẽ là thật sự mệt mỏi, nụ cười của nàng bớt đi chút khôn khéo so với trước kia, Lâm Yến cũng cong khóe mắt, sắc mặt ấm áp hơn bình thường đôi chút.

 

 

Đăng trong Tiệm cơm nhỏ thành Trường An - Bánh Anh Đào

Tiệm cơm – Chương 44

Chương 44: Bữa cơm tất niên vui vẻ

Chu quản gia ôm một cái rương đặt lên sàn nhà trong thư phòng, bẩm báo: “A lang, cái này tìm thấy trong tiểu viện ở phía tây trong lúc quét dọn, có thể là của chủ cũ, lão nô không dám tự quyết, đặc biệt bẩm báo a lang.”

Tòa nhà này rất lớn, Lâm gia lại ít người, nô bộc cũng không nhiều, đầu năm nay lúc dọn vào thì chỉ tu sửa quét dọn các viện chính, sảnh đường và hoa viên, cho nên chỗ vốn dành cho nô bộc, chỗ đặt đồ linh tinh thì không khỏi qua loa, bây giờ chuẩn bị đón năm mới mới dọn dẹp toàn bộ một lượt, thế cho nên mới phát hiện ra một ít đồ cũ.

Số đồ cũ đó đều đã cũ nát, bọn nô bộc chất thành một đống giữa sân, định châm lửa đốt luôn một thể. Chu quản gia đi kiểm tra tình hình thì phát hiện đám sách đang chuẩn bị bị đốt này.

Mấy quyển sách này không được giữ gìn kĩ càng, không ít quyển đã mục rữa, cho dù có là tác phẩm của học giả tiếng tăm thì bây giờ cũng chẳng đáng giá tiền nữa. Chu quản gia cũng coi như là người đọc sách, cầm một quyển lên lật lật, không ngờ lại là bản hiếm do đại nho tiền triều chú giải! Mấy quyển khác có quyển là thơ, có quyển là du ký, có thư từ, ngẫu nhiên có thể bắt gặp chữ viết của chủ nhà, nét chữ vô cùng phóng khoáng thoát tục.

Chu quản gia nghĩ ngợi một lát, lấy hết cả, phủi sạch bụi bặm rồi đặt vào trong rương, bây giờ thấy Lâm Yến nghỉ ở nhà thì mang tới.

Lâm Yến thả quyển sách trong tay xuống, đứng lên đi tới. Cầm quyển chú giải bản hiếm kia lên lật một cái, không ngờ lại nhìn thấy nét chữ ở trên đình trong vườn.

“Cứ đặt ở đây đi.” Lâm Yến gật đầu với Chu quản gia.

Chu quản gia hành lễ rồi lui đi.

Lâm Yến không ngại bụi bặm, đặt hết sách lên bàn, lật xem từng quyển một. Theo lý mà nói thì trước đây lúc xét nhà, thư phòng phải là nơi quan trọng nhất, nhưng có lẽ mấy quyển sách này đặt ở phòng ngủ hoặc chỗ nào khác nên không bị tịch thu, sau đó tòa nhà này được bán cho người khác, thế là số sách này lưu lạc vào tay nô bộc của chủ nhà.

Từ trong những quyển sách này dường như có thể nhìn thấy được vị thị lang bộ Lễ nho nhã cởi mở kia, hắn yêu thơ yêu rượu, có thú nhàn tản, hơi phóng túng nhưng lại không mất đi sự đúng mực, tính tình hiền hòa lại ngông nghênh… Đúng là kẻ sĩ phong lưu chân chính.

Lâm Yến nhớ tới những lời rất không khuôn phép của vị Thẩm cô nương kia, mặt mày thì hào hứng, lại còn bức tranh thôn quê nhàn nhã kia, chắc hẳn cũng là bắt nguồn từ đây. Chỉ là cha thì hơn ở vẻ thanh nhã, trong khi con gái lại… có phần thiếu đứng đắn.

Nghĩ tới Thẩm cô nương, bên dưới lại thật sự có đồ của nàng – vở tập viết.

Kiểu chữ mà nàng tập viết là chữ khải Chung Vương*, mặc dù nét chữ còn non nớt nhưng cũng có thể nhìn ra nét thanh thú mềm mại, khác xa kiểu chữ nét mảnh đầy tinh thần hiện giờ. Chắc hẳn chữ hiện giờ là học được từ các tiến sĩ trong cung.

* Chung Vương chỉ Chung Diêu và Vương Hy Chi, hai bậc thầy thư pháp.

Trên quyển vở tập viết, ngoài nét chữ non nớt này ra thì còn có hai kiểu chữ khác, một thì khoan thai xinh đẹp, một lại phóng khoáng hào hiệp. Kiểu chữ khoan thai xinh đẹp kia viết: “Chữ của A Tề, như nằm như ngồi.” Kiểu chữ phóng khoáng hào hiệp kia lại là: “Như nằm như ngồi, ngay thẳng thoát tục.”

Cái này chắc hẳn là do Thẩm thị lang và Thẩm phu nhân viết. Mặc dù chỉ lác đác vài ba chữ nhưng thần thái của từng người vẫn phảng phất như hiện ra ngay trước mắt. Lâm Yến nở nụ cười hơi xấu hổ, thật đúng là một đôi thần tiên quyến lữ.

Nghĩ tới thần tiên quyến lữ, không biết tại sao trong đầu Lâm Yến lại hiện ra khuôn mặt tươi cười của Thẩm cô nương kia, nàng nhướng mày mỉm cười, có đôi nét bỡn cợt: “Thiếu doãn là con cháu nhà quyền quý, chắc là chưa từng trải qua cảnh tay chân bị cóng… Lúc nhi còn ở Dịch Đình, than củi không đủ, hễ trời rét buốt thì tay chân sẽ sưng phồng chảy mủ. Nếu cứ lạnh thế thì không sao, chẳng qua là nứt nẻ đôi chỗ, hơi đau một chút mà thôi. Sợ nhất là đột nhiên lại gặp phải than củi, ôi chao, nhói buốt không chịu nổi.”

Lâm Yến nhếch miệng, lật qua quyển vở tập viết kia, đọc quyển du ký bên dưới.

Tỳ nữ tới gõ cửa: “A lang, thái phu nhân mời a lang tới ăn lê ngâm rượu.”

“Tới ngay đây.”

Lúc Lâm Yến lật xem “vở bài tập cấp tiểu học” của Thẩm Thiều Quang thì Thẩm Thiều Quang đang cùng Vu Tam nấu nướng trong bếp. Cơm tất niên mỗi năm chỉ có một lần, không thể qua loa được.

Cơm tất niên của Thẩm gia có đôi chút cảm giác xuyên không, vừa có rượu đồ tô, đĩa ngũ tân, kẹo mạch nha của thời Đường lại vừa có gà vịt thịt cá và món ăn tiêu biểu nhất cho năm mới ở thời hiện đại – sủi cảo.

Gà là do Thẩm Thiều Quang nấu. Bởi vì chỉ là gà non nên không mang đi hầm. Sau khi giết thì rửa sạch chặt thành khối, tẩm ướp gia vị, sau đó lăn bột cho vào nồi dầu chiên cho tới lúc vàng ươm thì gắp ra. Lại lấy một cái nồi khác, cho tiêu hành gừng các loại vào rang qua, bỏ gà đã chiên giòn vào đảo đều, đổ thêm nửa bát con hỗn hợp nước tương, đường và rượu vàng vào xào lên, rắc một ít bột thì là và muối vào là xong.

Thịt gà chế biến theo kiểu này có mùi cháy sém thơm nức mũi, khiến người ta thèm chảy nước miếng.

Món vịt của công chúa Vu Tam cũng là một món công phu. Vịt giết xong thì rút hết xương, khâu này Thẩm Thiều Quang làm không thạo nhưng Vu Tam lại làm rất tốt. Mũi dao đi dọc theo xương, xương bị lấy ra hết nhưng phần da và thịt bên ngoài lại không hề bị rách.

Thẩm Thiều Quang chẳng bao giờ tiếc rẻ lời khen của mình: “Tay nghề tuyệt đỉnh! Tay nghề tuyệt đỉnh!”

Công chúa Vu Tam liếc nàng một cái, cuối cùng cũng nhếch khóe môi lên.

“Ta thấy, nếu ngươi không làm đầu bếp thì cũng có thể đi làm sát thủ.” Câu tiếp theo, Thẩm Thiều Quang lại bắt đầu không đứng đắn.

Khóe môi Vu Tam vừa vểnh lên lại mím lại.

Vịt rút hết xương rồi thì cho gạo nếp, thịt khô, nấm, măng thái nhỏ, hành, gừng trộn đều vào bên trong, dùng dây buộc chặt chỗ bắt đầu xuống dao rút xương, bỏ canh gà vào chưng cách thủy hai canh giờ, khá giống với món gà bát bảo thời hiện đại*.

* Tham khảo “Vịt chưng” trích từ “Thực đơn theo vườn” của Viên Mai. [tác giả]

Ăn xong cơm trưa thì Vu Tam đã bắt tay ngay vào làm món ăn công phu này, tới lúc Thẩm Thiều Quang xào thịt gà thì món vịt cũng vừa xong.

Cá thì hôm qua A Xương phải chạy khắp Tây Thị mới mua được, là một con cá chép nặng hơn một cân, Thẩm Thiều Quang làm thành món cá sốt chua ngọt kinh điển. Hai lần chiên dầu, lần đầu chiên kĩ, lần sau chiên lửa lớn, đầu và đuôi vểnh lên, trông cứ như đang muốn nhảy lên. Bên trên rưới nước sốt chua ngọt đậm đặc màu đỏ óng ánh, vẻ ngoài vô cùng bắt mắt.

Cá sốt chua ngọt là món sở trường của Thẩm Thiều Quang, cũng giống như chính nàng ở trong mắt mọi người, lanh lợi, xinh đẹp, mang theo đôi chút tính cách “ta cứ thích thế này đấy”.

Thịt thì là món canh sư tử đầu làm nên thương hiệu Thẩm Ký. Bốn viên thịt lợn đặt cạnh nhau, ý là phúc lộc thọ hỉ.

Ngoài những món kể trên ra thì còn có các món khác như đậu phụ khô xào, cần trộn giấm chua, cá khô rán, cải thảo xào, củ cải xào thịt dê, bày kín hai cái bàn.

Bốn người quán Thẩm Ký xưa nay đều không phân biệt rạch ròi chủ tớ, bây giờ đều ngồi vây quanh bàn ăn.

Vu Tam nhìn Thẩm Thiều Quang, chờ nàng lên tiếng chúc rượu, ngay cả hai kẻ tham ăn A Viên và A Xương cũng cố nuốt nước bọt chờ cô nương lên tiếng.

Thẩm Thiều Quang nhìn bọn họ: “Không ăn đi? Còn chờ cái gì?”

Vu Tam liếc mắt một cái, cuối cùng mỉm cười.

A Viên và A Xương đều bật cười, A Viên cầm đũa lên, cười híp mắt gắp một miếng cánh gà.

Thẩm Thiều Quang lấy dao chia con vịt thành tám phần, sau đó gắp một phần vào trong bát mình, từ từ ăn.

Vu Tam thì dùng thìa múc một miếng sư tử đầu, cúi xuống ăn.

A Xương thì tấn công từ đủ mọi phía, y như con thú săn mồi.

Đêm nay đã định sẵn là một đêm no nê…

Ăn một lát rồi mới bắt đầu uống rượu.

Theo tập thục thời này, người nhỏ tuổi nhất sẽ uống trước, cái này được gọi là “người nhỏ được tuổi, phải chúc rượu trước, người già mất tuổi, nên uống rượu sau”. A Viên nhỏ hơn A Xương một chút, cho nên A Viên uống trước.

A Viên cười híp mắt uống cạn một chén đầy, sau đó là A Xương, sau đó là Thẩm Thiều Quang, sau đó là Vu Tam.

Cuối cùng Thẩm Thiều Quang cũng nói vài câu chúc mừng: “Mọi người lại thêm một tuổi rồi, hy vọng sang năm chúng ta có thể kiếm nhiều tiền hơn, có người có thể thoát đơn.” Thẩm Thiều Quang cười híp mắt nhìn Vu Tam.

Thời này như Vu Tam cũng có thể tính là nam thanh niên lớn tuổi, nên cưới vợ rồi. Tiếc là bây giờ ngay cả bản thân Thẩm Thiều Quang cũng chưa ổn định, nàng định bụng chờ thêm vài năm nữa ổn định hơn một chút thì sẽ giải trừ khế ước mua bán của Vu Tam, để hắn làm một người dân bình thường, quan hệ với trong quán thì có thể đổi thành làm thuê. A Viên với A Xương còn nhỏ, chưa cần phải lo lắng.

“Thoát đơn là cái gì?” A Viên hỏi trước.

Là cẩu độc thân mà cũng không tự biết! Thẩm Thiều Quang giải thích cho nàng ta hiểu ý nghĩa của cái từ tới từ ngàn năm sau này: “Chính là cưới gả thành gia lập thất.”

“À…” A Viên và A Xương đều nhìn Vu Tam.

Vu Tam hơi đỏ mặt, liếc mắt nhìn Thẩm Thiều Quang: “Cô nương vẫn nên tự lo cho mình trước đi đã.”

Thẩm Thiều Quang mặt dày: “Ngươi già hơn, ngươi trước. Ta không sốt ruột.”

A Viên và A Xương cười ha ha.

Thẩm Thiều Quang cũng cười theo, Vu Tam cúi đầu ăn tiếp.

Già từng này rồi còn ngại ngùng nữa cơ đấy…

Thẩm Thiều Quang cảm thấy mình có sở thích y như mấy bà trung niên, nhưng mà nếu tính cả hai đời gộp lại thì nàng cũng đã trung niên rồi…

Thôi thôi, không được nghĩ tiếp nữa, Thẩm Thiều Quang tiếp tục rót rượu uống. Mặc dù độ cồn thấp nhưng uống nhiều rồi cũng dần chếnh choáng say. Thẩm Thiều Quang kể một đoạn tiểu phẩm hài thời hiện đại, nghe A Viên hát một làn điệu dân gian ở Trường An, lại bắt Vu Tam và A Xương đi ra múa một hồi.

Ước chừng tới lúc, Thẩm Thiều Quang lảo đảo bước chân đi luộc sủi cảo.

Vu Tam chê nàng: “Ngươi đừng có nấu hỏng hết sủi cảo đấy!”

Thẩm Thiều Quang phổ cập kiến thức cho hắn: “Cái gì gọi là nấu hỏng hả? Thế gọi là nấu có lời!” Lại dặn dò A Viên, A Xương: “Sau này nấu hoành thánh, nấu “hỏng” cũng gọi là “có lời”.”

“Nói tới cái này ta lại nhớ tới một câu chuyện cười. Chuyện kể là có một cửa hàng, để cho lạ miệng thì lúc nấu hoành thánh mừng năm mới cố ý nấu hỏng mấy cái, còn kêu to là “Nấu có lời không?” Người nấu trả lời là “Có lời, có lời”.”

“Kết quả có một năm đầu bếp nấu hoành thánh là một người mới tới, chủ cửa hàng hỏi “Nấu có lời không?”, người đầu bếp kia trả lời là “Ngài yên tâm, có ta ở đây, không lời được cái nào hết!”*.” Thẩm Thiều Quang bắt chước người đầu bếp ngốc nghếch kia, gào to lên.

* Một câu chuyện cười đọc được lúc còn bé. [tác giả]

Bên ngoài, A Viên và A Xương đã cười nghiêng cả người, Vu Tam cũng cười bất đắc dĩ.

44 cơm tất niên

 

 

Đăng trong Tiệm cơm nhỏ thành Trường An - Bánh Anh Đào

Tiệm cơm – Chương 43

Chương 43: Vụ làm ăn lớn dịp cuối năm

Qua hai mươi ba tháng chạp rồi thì thật đúng là đã nhòn năm, nhà nào nhà nấy đều bận rộn quét dọn nhà cửa, làm xuân phiên*, đổi đào phù**, cũng chuẩn bị các loại đồ ăn đồ uống để ăn tết và cúng tế tổ tiên như rượu đồ tô, đĩa ngũ tân***, kẹo mạch nha. Tới hai bảy, hai tám tháng chạp, trong quán đã quét dọn sạch sẽ, treo đào phù mới, phát tiền thưởng xong xuôi, chuẩn bị đóng cửa, chờ qua mồng năm tháng giêng sẽ mở cửa trở lại.

43 xuân phiên

* Theo tục lệ cũ ở Trung Quốc, gần tới ngày lập xuân, người ta thường làm những chiếc trâm bạc, ở đuôi trâm gắn một chuỗi gồm những mảnh bạc nhỏ. Những chiếc trâm kiểu này trông giống như lá cờ nên được gọi là “xuân phiên” (“phiên” có nghĩa là cờ), được phụ nữ cài lên đầu với ý nghĩa là đón xuân. Ngoài ra, “xuân phiên” cũng chỉ những lá cờ biểu ngữ dài được treo trên cây tre vào dịp đón năm mới với ý nghĩa tương tự như cây nêu ở Việt Nam.

43 đào phù

** Thời cổ đại, trên cửa thường treo hai tấm gỗ đào hoặc giấy vẽ thần giữ cửa hoặc viết tên hai vị thần giữ cửa “Thần Đồ” và “Úc Lũy” để tránh tà ma, gọi là “đào phù”. Về sau người ta thường dán câu đối xuân trên đào phù, cho nên “đào phù” cũng được dùng để chỉ câu đối xuân.

*** Thời cổ đại, ngày mồng một đầu năm trong dân gian có phong tục uống rượu đồ tô ăn đĩa ngũ tân. “Ngũ tân” bao gồm năm loại rau củ gia vị, trong đó có hành, tỏi, những loại rau củ khác thì tùy vùng và tùy thời đại mà khác nhau. “Ngũ tân” còn có tên gọi khác là “đĩa xuân” và thường được người ta biếu tặng nhau vào dịp năm mới.

Thẩm Thiều Quang đứng cạnh cửa chào người hàng rau và hàng thịt: “Xuân sắp tới rồi, chúc các lang quân gia đình phúc thọ an khang.”

Hàng thịt hàng rau cũng đều chắp tay đáp lễ, cười chúc phúc: “Chúc cô nương phúc thọ an khang”, “Chúc quán rượu buôn may bán đắt”.

Thịt và rau được đưa tới hôm nay, chỉ cần ổn ổn thì quán rượu đều lấy hết, hàng thịt cũng bớt phần lẻ cho nàng, thậm chí Thẩm Thiều Quang còn tặng bọn họ một ít bánh ngọt trong quán mới làm, để bọn họ mang về cho người nhà nếm thử, đây là phép lịch sự và cũng là lễ nghĩa giữa những người buôn bán nhỏ chốn chợ búa với nhau.

Lại hẹn thời gian giao hàng đầu năm sau, Thẩm Thiều Quang nhìn bọn họ ra về.

Hôm nay cũng là ngày cuối cùng trong năm quán rượu Thẩm Ký mở cửa, Vu Tam và A Xương bận rộn chuyển rau, băm thịt, cái gì cần ướp thì ướp, cái gì cần đưa ra ngoài đông lạnh thì đưa ra ngoài đông lạnh, để dành tới tết và năm sau ăn dần.

A Viên thì đứng một bên chờ chạy vặt cho Thẩm Thiều Quang trong lúc nàng làm xuân phiên, viết đào phù.

Xuân phiên này không phải là cây trâm bạc được khảm nạm khéo léo để cài trên đầu mà là cờ để treo trong sân ngày mồng một, dùng vải bố màu xanh để may, ý tứ đại khái là để đón xuân. Trình độ may vá của Thẩm Thiều Quang chỉ tàm tạm, nhưng nếu chỉ may xuân phiên thôi thì vẫn dư sức.

Còn viết đào phù thì nàng chắc tay hơn.

“Cầu gia phường đậu phụ đã tới lấy đào phù rồi chứ?” Thẩm Thiều Quang vừa may vừa hỏi A Viên.

“Sáng nay đã tới lấy rồi, còn tặng một hộp đậu rang ngũ vị hương làm quà cảm ơn.”

Thẩm Thiều Quang cười nói: “Để rang một ít thịt khô làm đồ nhắm ăn cùng trong lúc uống rượu.”

Biết biển quảng cáo, thực đơn trong quán đều do Thẩm Thiều Quang tự tay viết, hàng xóm và mấy cửa hàng thân thiết đều tới nhờ nàng viết đào phù – bởi lẽ chữ của phu tử không dễ xin, một là vì nhiều người xin, phu tử không kiên nhẫn, một nữa là vì người đọc sách chê viết cái này quá tục. Dân thường và kẻ buôn bán nhỏ không hiểu rõ kiểu chữ này kiểu chữ kia, cũng không biết là chữ đẹp hay xấu, nhưng mà Thẩm cô nương thì hòa đồng dễ nói chuyện hơn mà…

Thẩm Thiều Quang nghĩ bụng sạp rút thẻ xem bói của mình có thể kèm thêm dịch vụ viết đào phù, vẽ thần giữ của nữa, có thần bảo hộ, chắc chắn chuyện làm ăn sẽ rất suôn sẻ.

Vu Tam đi ngang qua, liếc mắt nhìn lá cờ xuân phiên với những đường kim mũi chỉ thô to trong tay Thẩm Thiều Quang, nhếch môi phì cười.

A Viên trừng mắt với hắn: “Cười cái gì? Ngươi còn không biết may đâu đấy!”

Thẩm Thiều Quang ra sức gật đầu, A Viên bắt bẻ hay lắm! Trưa nay phải thưởng thêm một cái đùi gà.

Trên mặt Vu Tam đầy ý cười, tay cầm móc sắt đi xem thịt đông trong sân.

Chuông treo trên cửa quán vang lên, Thẩm Thiều Quang hơi ngờ vực, bây giờ mới giờ tỵ mà đã có khách tới uống rượu rồi sao? Hay lại là người tới nhờ viết đào phù?

Rèm cửa bị vén lên, đi vào là một cô nương mặc trang phục cưỡi ngựa kiểu người Hồ, trong tay cầm roi ngựa, phía sau có tỳ nữ và thị vệ đi theo, Thẩm Thiều Quang hơi ngây ra, vị này thì chắc chắn không phải tới nhờ viết đào phù.

Thẩm Thiều Quang buông kim chỉ xuống, đứng dậy đón khách: “Mời cô nương vào ngồi trong này.”

Vị nữ khách kia nhìn Thẩm Thiều Quang, lại nhìn lướt qua bên trong quán, đưa roi ngựa cho tỳ nữ: “Chắc là chỗ này rồi.”

Hai người thị vệ phía sau nàng ta liền hành lễ rồi đi ra ngoài.

Thẩm Thiều Quang dùng khay bưng nước táo đỏ câu kỷ tử đi ra, cười nói: “Mời cô nương uống một hớp nước cho ấm người.”

Tỳ nữ bên cạnh vị nữ khách nhận lấy cái khay, liếc mắt nhìn cốc nước với vẻ nghi ngờ, cuối cùng đặt lên chiếc bàn trước mặt chủ nhân.

Vị nữ khách kia không để ý lắm, bưng lên uống một ngụm, nhướng mày: “Ấy, mùi vị được lắm!”

Thẩm Thiều Quang cười nói cảm ơn, thực ra thứ nước này vốn không ngọt như vậy, vì biết khẩu vị của vị này nên vừa rồi nàng đã cố ý bỏ thêm mật vào.

Thẩm Thiều Quang dâng thực đơn tới, trong bụng tự hỏi năm hết tết đến vị này lại chạy tới quán rượu làm cái gì? Chẳng lẽ công chúa cũng thích trò cải trang vi hành khảo sát dân tình? Thế thì thật là giống với vị phó thị trưởng thích điều tra độ hạnh phúc kia, đều có thể được bầu làm mười nhân vật tốt nhất thời Đại Đường.

Nghĩ tới vị phó thị trưởng kia, Thẩm Thiều Quang lại đột nhiên nghĩ tới Bàng nhị nương và Tần ngũ nương, sau đó không khỏi suy nghĩ miên man, chẳng lẽ vị này cũng là hoa đào của Lâm thiếu doãn?

“Nghe nói món lẩu này bắt nguồn từ một quán rượu trong phường Sùng Hiền, phải chăng chính là quý quán?” Phúc Tuệ trưởng công chúa chỉ vào thực đơn, cất tiếng hỏi.

Thẩm Thiều Quang cười nói: “Đúng là của quán bọn ta. Cô nương có muốn gọi một nồi ăn thử không?”

Phúc Tuệ trưởng công chúa nổi hứng: “Được! Vậy thì… mỗi loại một phần đi. Thịt và rau thì ngươi xem rồi đưa lên.”

Thẩm Thiều Quang cười xòa: “Quán ta có tới bảy, tám loại nước lẩu, nếu đưa tất cả lên, làm cho cả gian nhiễm mùi khói lửa, dính vào y phục của quý khách thì e là không được tốt. Chi bằng dùng thử canh sữa trước? Đồ để nhúng rất nhiều, mùi vị cũng tốt.” Mặc dù nói mở quán ăn không sợ kẻ bụng bự, nhưng lãng phí đồ ăn cũng không tốt chút nào. Ngoài hoàng thành cũng có quy củ bên ngoài hoàng thành.

Thẩm Thiều Quang đưa ra cái cớ rất tốt, tưởng tượng ra cảnh cả người mình dính đầy mùi thịt… Phúc Tuệ trưởng công chúa gật đầu: “Cũng được, cứ theo lời ngươi nói đi.”

Thẩm Thiều Quang cười híp mắt lui xuống, chẳng có cô nương nào muốn cả người mình bị dính đầy mùi lẩu cả, kiếp trước còn đọc được bài viết kể về một cô nàng mặc áo mưa đi ăn lẩu để tránh mùi lẩu cơ mà.

Lúc Bùi Phỉ đi vào thì thấy ngay Phúc Tuệ trưởng công chúa đang ngồi trước bàn ăn, trước mặt là một nồi lẩu bốc hơi nghi ngút, bên cạnh có hai cái bàn bày đầy thịt và rau xanh, một người tỳ nữ đang vớt thịt vào trong bát cho nàng ta, cô nương chủ quán Thẩm Ký thì đang hâm rượu cạnh đó.

Bùi Phỉ cười khổ trong lòng, đi tới chào hỏi, bởi vì trưởng công chúa cải trang nên chỉ xưng là “Lục cô nương” – bởi lẽ Phúc Tuệ trưởng công chúa đứng hàng thứ sáu.

“Ta vừa đoán thì biết ngay là Bùi lang lại tới phường Sùng Hiền tìm Lâm thiếu doãn, cho nên cố ý tới chờ.” Phúc Tuệ trưởng công chúa vừa cười tủm tỉm vừa nói, lại chỉ chỉ vị trí đối diện mình cho Bùi Phỉ ngồi xuống.

Thẩm Thiều Quang còn chưa từng thấy vị Bùi công tử có cặp mắt đào hoa phong lưu này lộ ra vẻ bất đắc dĩ như vậy bao giờ.

Bùi Phỉ ngồi xuống bàn ăn đối diện Phúc Tuệ trưởng công chúa, Thẩm Thiều Quang chu đáo bắc nồi lẩu cho hắn, hơi nóng bốc lên có thể che bớt một chút sắc mặt.

“Ta nếm thử thấy thịt viên này rất được, chủ quán cũng đưa lên cho Bùi lang một phần đi!”

Thẩm Thiều Quang thật sự đưa lên cho Bùi Phỉ một phần.

“Đậu phụ này cũng ngon lắm, sao lại nhiều lỗ khí như vậy?”

“Đây là đậu phụ đã được đông lạnh.” Thẩm Thiều Quang đáp.

“Cái này nhúng nước mùi vị cũng được lắm.”

Thẩm Thiều Quang cũng đưa lên cho Bùi Phỉ một khay.

“Thịt viên này nhìn thế mà lại có hai tầng…”

“Đây là cái gì, giòn giòn dai dai…”

Thẩm Thiều Quang lần lượt đưa lên cho Bùi Phỉ từng món từng món một. Chẳng mấy chốc, bàn ăn trước mặt Bùi Phỉ đã chẳng còn chỗ trống, hai bàn ăn bên cạnh cũng đặt đầy đồ để nhúng.

Nhìn trưởng công chúa đang ăn uống ngon lành cùng Thẩm cô nương vui vẻ bận tới bận lui, Bùi Phỉ dứt khoát vò mẻ không sợ sứt, cầm đũa lên ăn.

Thẩm Thiều Quang khen thầm, phải vậy chứ, duỗi đầu một đao, rụt đầu cũng là một đao, vậy thì cứ ăn trước đã rồi lại nói.

Đáng tiếc là Bùi Phỉ còn chưa ăn được mấy miếng, trưởng công chúa đã ngừng đũa, cầm khăn lụa do tỳ nữ đưa tới lau miệng, sau đó khoát khoát tay với Thẩm Thiều Quang. Thẩm Thiều Quang vội vàng dẫn A Viên đi tới dọn dẹp cái bàn đặt nồi lẩu, đặt bàn khác vào, bưng một cốc nước lên, sau đó biết ý tránh vào bếp vờ như không hề tồn tại.

“Chắc là Bùi lang cũng biết rõ ý của ta, không biết là có bằng lòng không?”

Trong lòng Bùi Phỉ đắng chát, trong miệng cũng đắng chát, đang cân nhắc tìm từ thì Phúc Tuệ trưởng công chúa đã mở miệng nói tiếp: “Bằng lòng thì bằng lòng, không bằng lòng thì không bằng lòng, cớ gì trốn trốn tránh tránh y như nữ nhi?”

Mặt Bùi Phỉ đỏ ửng, hắn đứng lên hành lễ, trầm giọng nói: “Thần không bằng lòng.”

Trưởng công chúa nhướng mày nhìn hắn, ánh mắt đảo qua khuôn mặt tuấn tú của Bùi Phỉ, sau đó là tới bả vai, thắt lưng, đôi chân, cuối cùng khe khẽ thở dài một hơi: “Vậy thì thôi đi…”

Bùi Phỉ không ngờ rằng Phúc Tuệ trưởng công chúa lại dễ dàng “thôi đi” như vậy, hơi sững ra.

Phúc Tuệ trưởng công chúa đứng dậy, Thẩm Thiều Quang vội vàng từ phòng bếp đi ra đưa tiễn.

“Ngươi có muốn tới phủ trưởng công chúa làm đầu bếp không? Cũng không cần phải đổi nô tịch, lúc nào muốn đi thì nói một tiếng là được.”

Thẩm Thiều Quang vội vàng hành lễ: “Cảm tạ quý nhân đã cất nhắc, nhưng nhi là dân quê, sợ là không thể hầu hạ tốt cho quý nhân.” Lời nói dối rất chân thành.

Trưởng công chúa nhìn Thẩm Thiều Quang, lại thở dài một hơi: “Thôi được rồi, chỉ là hiếm có người hiểu ý ta như thế.” Nói xong thì tháo đôi vòng tay khảm đá quý trên cổ tay ra đưa cho Thẩm Thiều Quang.

Thẩm Thiều Quang đưa hai tay ra nhận: “Quý nhân ban tặng, thực sự quá quý trọng.”

Phúc Tuệ trưởng công chúa cười: “Coi như tiền cơm đi.” Nói rồi chắp tay đi ra ngoài.

Đứng cạnh cửa nhìn bóng người cưỡi ngựa đi xa, Thẩm Thiều Quang sờ sờ đá quý khảm nạm trên đôi vòng tay, vô cùng cảm khái: Trước kia cảm thấy Lý Bạch lấy “ngũ hoa mã, thiên kim cừu*” đổi rượu chỉ là nghệ thuật nói quá, xem ra rất có thể là sự thật… Trưởng công chúa thật là quá hào phóng, quá khí phách, quá khiến người ta thích!

* Trích “Tương tiến tửu” (Xin mời rượu) của Lý Bạch: Ngũ hoa mã, thiên kim cừu, hô nhi tương xuất hoán mỹ tửu, dữ nhĩ đồng tiêu vạn cổ sầu. Dịch nghĩa là: ngựa hoa năm sắc, áo cừu giá ngàn vàng; kêu đứa nhỏ ra đem đổi lấy rượu, cùng bạn tiêu mối sầu vạn cổ.

Thẩm Thiều Quang nghiêng đầu, đối diện với đôi mắt đào hoa kia. Bùi Phỉ nở một nụ cười có đôi chút thư thái nhưng lại có vài phần bất đắc dĩ.

Thẩm Thiều Quang cũng đáp lại hắn bằng một nụ cười, sau đó trịnh trọng hỏi: “Lang quân vào ăn tiếp chứ?”

Bùi Phỉ cảm thấy vẻ mặt giả vờ đứng đắn của Thẩm cô nương này giống y đúc Lâm Yến, cảm thấy ghét hết chỗ nói.

Bùi Phỉ quay đầu đi. Mặc dù Thẩm Thiều Quang cũng không phải quen thân gì hắn, nhưng lại có thể chắc chắn rằng hắn không giận thật, cười một cái rồi đi vào trong quán.

Ngày buôn bán cuối cùng trong năm lại được một vụ làm ăn lớn thế này, Thẩm Thiều Quang cảm thấy đây đúng là dấu hiệu tốt!

Thực ra hôm nay nhìn thấy Phúc Tuệ trưởng công chúa nàng khá là ngạc nhiên. Mặc dù vị trưởng công chúa này với hoàng thượng không do cùng một mẹ sinh ra nhưng ở trong cung lại rất có địa vị, trước đây chọn được một vị phò mã cũng không tệ, tiếc là trong lúc chinh chiến biên cương đã bị trọng thương, cũng chẳng hơn người chết là bao.

Nhoáng cái đã mấy năm, trưởng công chúa vẫn tận tâm tận tình chăm sóc phò mã, nhưng cũng không làm lỡ việc tìm kiếm lang quân trẻ tuổi hợp ý mình.

Người ta đồn là thái hậu và thánh thượng có khuyên nàng ta, nhưng trưởng công chúa đáp: “Phò mã tận trung vì nước, đương nhiên ta phải tận tâm tận lực chăm sóc hắn cho tốt.” Còn chuyện tìm lang quân trẻ tuổi thì: “Ta cũng không thể để bản thân phải chịu thiệt thòi được…”

Trưởng công chúa vẫn cứ tùy hứng làm theo ý mình, thái hậu và hoàng thượng chẳng thèm khuyên nữa.

Nghĩ tới Sở cô nương hôm trước, lại nghĩ lại Lý lục nương hôm nay, ngẫm lại thái độ và hành động của bọn họ trong chuyện tình yêu và hôn nhân, Thẩm Thiều Quang lại không chỉ ra được rõ có gì khác biệt.

Ây chà, nghĩ ngợi nhiều như vậy làm cái gì? Tết đến rồi thì cứ lo ăn tết đi đã! Tiễn mấy vị khách buổi trưa xong, quét dọn trong quán sạch sẽ, Thẩm Thiều Quang gọi Vu Tam và A Viên đóng cửa ngừng buôn bán, bắt đầu nghỉ tết!

 

 

Đăng trong Tiệm cơm nhỏ thành Trường An - Bánh Anh Đào

Tiệm cơm – Chương 42

Chương 42: Đêm cúng Ông Táo của mỗi người

Thẩm Thiều Quang cẩn thận lấy bánh hoa quế nhiều tầng từ trong khuôn ra, đặt vào trong cái khay to, phía trên phủ thêm hạt óc chó, hạt phỉ, hạt thông, táo đỏ, trang trí xong lại cho thêm một lớp mật hoa quế, vừa có mùi thơm ngọt ngào lại vừa đẹp mắt.

Đây là đồ người ta đặt để đêm nay cúng Ông Táo.

A Viên đi một vòng quanh cái bàn chế biến đồ ăn: “Bánh to thế này, ít nhất cũng phải nặng mười cân.”

Thẩm Thiều Quang vừa đổ mật hoa vừa trêu chọc nàng ta: “Thế này thì đã là gì chứ, còn có bánh ngọt nặng tới bốn tạ cơ.”

A Viên trợn tròn mắt, vẻ mặt cứ như thể cô nương lại lừa gạt người ta.

“Tiền triều có một vị lão thái hậu tổ chức mừng thọ, trong kinh thành có một cửa hàng bánh hoa vì muốn lấy lòng lão thái hậu mà quyết định làm một cái bánh mừng thọ có một không hai. Nhưng trong cung thì thiếu gì bánh, phải làm sao mới có thể khác biệt đây?”

A Xương và A Viên đều nghển cổ lên nghe Thẩm Thiều Quang kể chuyện, Vu Tam liếc bọn họ một cái, không nghỉ tay nhưng cũng vểnh tai lên nghe.

“Cửa hàng bánh hoa nghĩ đi nghĩ lại, nếu kiểu dáng không làm ra được cái gì đặc biệt, vậy thì làm thật to là được! To thì hùng vĩ, cũng thể hiện được phong phạm của thiên triều đúng không?”

“Thế là bắt tay vào làm, làm hẳn một cái bánh đào mừng thọ nặng bốn tạ. Nhưng vấn đề là thứ này đâu dễ đưa đến được trước mặt thái hậu như vậy? Chờ đi lại được với người trong cung rồi, dâng được cái bánh đào mừng thọ này lên thì bánh đã mốc xanh rồi.”

A Viên hỏi: “Sau đó thì sao?”

“Sau đó thì vứt đi thôi.” Thẩm Thiều Quang liếc nàng ta một cái.

A Viên giậm chân dẩu môi.

Thẩm Thiều Quang cười, gọi A Viên tới giúp nàng cùng đặt bánh hoa quế đã trang trí xong xuôi vào trong cái hộp to.

Đặt xong rồi, gói kín lại rồi, Thẩm Thiều Quang mới bổ sung kết cục cho câu chuyện kia: “Sau đó người ta mới có câu “bánh đào mừng thọ bốn tạ – ấy là món bánh vứt đi*” đấy.”

* Điển cố “bánh đào mừng thọ bốn tạ – ấy là món bánh vứt đi” nghe nói là liên quan tới Từ Hy thái hậu, không nhớ là đọc được ở sách “Hiểu lệ cũ” hay ở đâu, cũng có thể là trong sách ngoại khóa của học sinh tiểu học. [tác giả]

A Viên phì cười: “Cô nương thật là hay đùa.” A Xương cũng cười, đến cả Vu Tam cũng nhếch môi lên.

Thẩm Thiều Quang cũng mỉm cười, câu chuyện này nói với chúng ta rằng đừng có bắt chước chủ quán bánh ngọt kia mơ mấy giấc mơ quá viên mãn – ví dụ như mua lại nhà cũ.

Từ sau hôm trở về từ Lâm trạch, Thẩm Thiều Quang nằm mơ mấy ngày liên tục, phần lớn là những chuyện lúc nguyên thân còn nhỏ, bắt bướm câu cá nhảy dây, viết chữ vẽ tranh ăn bánh, khi đó cha mẹ đều còn trẻ, huynh trưởng là một thiếu niên đáng yêu, mỗi lần tỉnh lại Thẩm Thiều Quang lại buồn bã chán nản hơn.

Kiếp trước, chất lượng giấc ngủ của Thẩm Thiều Quang luôn rất tốt, bây giờ lại nằm mơ nhiều như vậy, chắc hẳn là vì xuyên không nhỉ?

Nói ra cũng buồn cười, thậm chí Thẩm Thiều Quang còn mơ thấy chuyện hoang đường hơn nữa, nàng thì đã lớn lên nhưng cha mẹ lại vẫn còn trẻ.

Cha buồn bã ưu tư.

Mẹ hỏi cha, cha đáp: “A Tề phải xuất giá rồi, ta thật sự không nỡ.”

Mẹ không biết làm sao: “Tiểu lang tử quả thật là không chê được điểm nào. Con nhà thế gia, thi đậu tiến sĩ, tướng mạo tốt, tính cách cũng trầm ổn, lại còn muốn thế nào nữa? Mà nhà cũng ở ngay trong kinh, muốn gặp là gặp được ngay.”

Ca ca vẫn trong dáng vẻ thiếu niên và cha đồng loạt lắc đầu: “Dù sao cũng là gả cho người ta, không giống như ở nhà.”

Nàng trong mộng lại cười híp mắt, thoáng nhìn thấy một bóng dáng cao lớn giữa đám hoa cỏ.

… Ây dà, thì ra là một giấc mộng xuân.

Nghĩ tới giấc mộng này, cẩu độc thân Thẩm Thiều Quang nhìn gian bếp đầy nồi niêu xoong chảo với đủ kiểu bánh hoa bánh ngọt, trong lòng lại càng thất vọng hơn, đúng là quá đáng tiếc, đám hoa cỏ đó quá dày, không nhìn rõ được mặt mũi vị hôn phu trong mộng, biết đâu lại là Cổ Thiên Lạc lúc còn trẻ thì sao?

Bên ngoài có người tới: “Chủ quán?”

Thẩm Thiều Quang lên tiếng đáp lại, đi ra khỏi phòng bếp. Là vị khách đặt cái bánh hoa quế cỡ lớn kia tới lấy hàng.

Thẩm Thiều Quang mở nắp đậy hộp bánh để hắn kiểm tra hàng, lại đặt một cái bánh hoa khác mà hắn đặt vào một cái hộp khác, dặn hắn nhất định phải cẩn thận, không thể để xóc nảy làm hỏng bánh.

Vị khách trông có dáng vẻ quản gia kia giao tiền, cười cảm ơn Thẩm Thiều Quang, nói lát nữa sẽ cho người đưa trả lại hộp đựng, sau đó bảo tên nô bộc bên cạnh cầm bánh, cáo từ ra về.

Các vị khách đặt trước bánh hoa khác cũng lục tục tới lấy hàng, tới lúc trống chiều gõ tiếng đầu tiên thì bánh đều đã lấy hết.

Thẩm Thiều Quang bảo A Viên đưa tấm biển ngừng bán hàng ra treo ngoài cửa, sau đó cùng Vu Tam chuẩn bị đồ cúng Ông Táo cho nhà mình và cả bữa tối.

Thời này lễ cúng Ông Táo cầu kỳ hơn thời hiện đại rất nhiều, gà vịt thịt cá bánh ngọt đều phải có, đặc biệt là không thể thiếu rượu và kẹo mạch nha, trong cung còn phải giết dê vàng và quay thịt dê vàng.

Kẹo mạch nha này có dạng khối cũng có dạng sợi, không phải là “viên quả bí” như Thẩm Thiều Quang ăn lúc còn nhỏ.

Thẩm Thiều Quang luôn cảm thấy kiểu như viên quả bí ăn ngon hơn, lớn chừng quả trứng gà, trông như quả bí đỏ, lớp vỏ rất mỏng, bên trong để rỗng, trên lớp vỏ có trang trí màu xanh lá hoặc màu đỏ cam, cắn một cái, ban đầu là giòn tan, sau đó lại dai dai dinh dính mà ngọt lịm.

Kẹo mạch nha thời giờ thiếu cái cảm giác giòn tan đó.

Mà cho dù là kẹo gì thì cũng là để làm ngọt miệng Ông Táo mà thôi, cả rượu cũng vậy. Lạ lùng nhất là thời này cúng Ông Táo còn phải bôi rượu và kẹo lên miệng Ông Táo, thật là hệt như trò chơi giả vờ uống rượu của trẻ con.

Táo Quân là nam, việc cầm đũa tre chấm rượu đút cho Táo quân này A Viên không tiện động tay, đành phải để A Xương làm.

Chờ hắn làm xong, Thẩm Thiều Quang cười híp mắt cầu khấn, hy vọng Táo Quân ăn uống no nê về trời, thìa dài thìa ngắn chớ vướng mây, xin được may mắn về thơm lây*…

* Dựa theo tác phẩm của Phạm Thành Đại thời Tống [tác giả]. Phạm Thành Đại là một nhà văn lớn thời Nam Tống.

Thực ra việc cúng Ông Táo thường là để nam nhân làm, người ta bảo “nam không bái nguyệt, nữ không cúng Ông Táo”, nhưng Thẩm gia cũng không còn ai khác, cho nên Thẩm Thiều Quang chỉ có thể tự mình làm.

Thẩm Thiều Quang lại đốt tiền giấy và hàng mã, Vu Tam A Viên A Xương cũng dập đầu theo, tiễn vị lão đại nhà bếp này về trời, tới đây thì lễ tế cũng hoàn thành.

Sau đó là bữa cơm tiểu niên. Thời này còn chưa có cách gọi “tiểu niên”, ngày này cũng không quy định phải ăn cái gì, mọi người đều ăn theo Ông Táo.

Thẩm Thiều Quang chuẩn bị nước dùng xong, đóng cửa quán, bốn người vui vẻ ăn thịt nhúng.

Thẩm Thiều Quang vớt đậu phụ đã nhúng xong cho vào trong bát, chấm nước trộn từ tương vừng, nước tôm và hoa hẹ, lại nhúng các loại cải thảo, củ cải, khoai sọ, thịt thì nàng không ăn mấy, chỉ nhúng vài viên thịt rồi thôi.

A Viên, A Xương thì thuộc phe ăn thịt, chưa từng có sức chống cự trước các loại thịt viên, thịt lát, dạ dày lá sách, tiết lợn tiết vịt đậu phụ, nhúng hết đĩa này tới đĩa khác, ăn vô cùng nhiệt tình.

Vu Tam thì yên ắng hơn nhiều, chỉ dùng canh sữa nhúng thịt dê và cải thảo.

Thấy Thẩm Thiều Quang chỉ ăn mấy viên thịt nhúng đã thôi, Vu Tam đứng dậy: “Ta đi nhào một ít bánh bột, các ngươi ai muốn ăn?”

A Viên và A Xương đều lắc đầu, đang ăn vui vẻ thế này, ai muốn ăn bánh bột cơ chứ? Ngươi nói thử xem sao mà nước lẩu này ăn mãi vẫn không đã thèm chứ? Chẳng lẽ đúng như lời cô nương nói, kiếp trước là lẩu tinh?

Thẩm Thiều Quang giơ tay: “Ta muốn một ít, phải mỏng, nấu kĩ mới dễ tiêu.”

Vu Tam nhíu mày tặng nàng một ánh mắt “sao mà kén chọn thế”, tự đi lấy bột để làm bánh.

Bình thường Thẩm Thiều Quang đã quen bị công chúa Vu Tam chê bai, híp mắt cười, chẳng hề có dáng vẻ uy nghiêm của chủ nhân.

Chẳng bao lâu sau, Vu Tam đã dùng cái mành trúc nhỏ bưng một ít bánh bột đi ra, một phần thì nặn hình cánh hoa be bé, phần còn lại thì là hình lá hẹ như bình thường.

Thẩm Thiều Quang cười hì hì lấy một ít bánh bột hình cánh hoa bỏ vào trong nồi nước dùng của mình, phần còn lại thì Vu Tam bỏ hết vào nồi hắn.

Thẩm Thiều Quang và Vu Tam đã ăn no, ngồi uống nước nhìn hai người nhỏ hơn ăn lẩu.

Thẩm Thiều Quang nhớ là kiếp trước lúc nàng mười sáu, mười bảy tuổi cũng ăn rất khỏe, có thể một mình ăn hết một con gà quay, còn ăn thêm được một cái bánh nướng. Thực ra ở kiếp này bây giờ nàng cũng mới mười chín tuổi, sao mà lại chẳng có khẩu vị mấy nữa chứ? Chẳng lẽ cái thứ khẩu vị này lại còn chơi trò hai kiếp gộp lại? Nhìn hai tên tham ăn đang ăn uống say sưa kia, Thẩm Thiều Quang hết sức hâm mộ.

Hai tên tham ăn chỉ ăn thịt ăn rau đã no, không cần Vu Tam phải mất công đi nhào bột lần nữa.

Ăn xong rồi, Vu Tam dẫn A Viên A Xương đi thu dọn nhà bếp, quét tước vệ sinh, Thẩm Thiều Quang dẫn A Viên thắp đèn lồng chậm rãi trở về hậu trạch.

Lão Bạch từng làm bài thơ, nói rằng sau bữa tiệc thì “sênh ca quy viện lạc, đăng hỏa hạ lâu đài”.

* Trích “Yến tán” (Tan tiệc) của Bạch Cư Dị, dịch thơ: Về viện sênh réo rắt, xuống lầu đèn sáng choang. [Bản dịch của Phụng Hà]

Yến Thù cho rằng đây là “lời hay nói kẻ giàu sang”, mà trong Khấu Lão Tây lại bảo là “già thấy thắt lưng vàng nặng, mệt thấy gối ngọc lạnh”, tục, rất tục, “không phải lời nói cảnh giàu sang”.

* Yến Thù là một nhà chính trị, nhà thơ, nhà thư pháp Trung Quốc thời Tống.

** Khấu Lão Tây Nhi là tên một bộ phim hài. 

Về sau Lỗ Tấn tiên sinh cũng cho rằng chỉ có yên vui mới thực sự là giàu sang, không cần bất cứ câu chữ đẹp đẽ nào tô điểm thêm, không có chữ nào phú quý thì mới càng tỏ rõ sự phú quý.

Thẩm Thiều Quang cũng cảm thấy thơ của lão Bạch rất giàu sang, cũng cho rằng hiện giờ mình đã đạt được một nửa thành tựu trong thơ của Bạch thượng thư, không có “sênh ca” nhưng đã có “tiểu viện”, mặc dù không có “lầu gác” nhưng đã có “đèn đóm”… Nghĩ thế rồi tự mình bật cười, mình đúng là không chỗ nào không cười được!

Cái vị thực sự có “lầu gác” kia lại không có “sênh ca”, đang dặn dò đám tỳ nữ và vú già gác đêm cho bà nội, trong phòng đốt than củi thì khó tránh khỏi khô hanh, trên lò nấu trà phải để sẵn chút nước ấm, chờ thái phu nhân tỉnh thì cho uống vài ngụm. Đám tỳ nữ đều hành lễ đáp vâng. Lâm Yến dặn dò thêm vài câu nữa rồi rời khỏi viện của bà nội.

Phía sau, mấy người vú già đóng cửa viện. Nô bộc xách đèn đi trước, Lâm Yến vừa nghĩ chuyện đêm nay phải điều chỉnh cách bố trí lính tuần vệ trong kinh để đảm bảo cho hội triều, vừa đi về phía thư phòng.

Gió bấc làm lung lay đám cây cối khô héo trong sân, lại xuyên qua chỗ trống giữa những nét chạm trổ hình hoa trên hành lang, phe phẩy trên khuôn mặt nghiêm nghị của Lâm Yến, thổi tung dây buộc áo khoác của hắn, vỗ vào góc áo choàng của hắn, tiếng trống canh ở xa xa cùng tiếng bước chân của một chủ một tớ vang lên giữa đêm đông vắng lặng này.