Đăng trong Tiệm cơm nhỏ thành Trường An - Bánh Anh Đào

Tiệm cơm – Chương 33

Chương 33: Cái món lẩu quỷ quái này

Có lẽ mùa đông và lẩu đúng là tuyệt phối, cũng có thể là vì khẩu vị của đồng bào cả nước qua hàng trăm năm vẫn có tính nhất trí, cho nên món lẩu đông khách hơn cả mong đợi, khách tới muộn thường không được ăn vì đã hết nồi, Thẩm Thiều Quang lại vội vàng đi đặt làm thêm mấy cái nồi nữa.

Lúc đi đặt làm nồi, người thợ thủ công kia nói với Thẩm Thiều Quang: “Mấy hôm nay cũng có người cầm bản vẽ tương tự tới đặt làm.”

Người cùng nghề sao? Thẩm Thiều Quang cười hỏi: “Đặt làm mấy cái?”

Người thợ thủ công kia nói: “Năm cái, nhìn dáng vẻ giống như tôi tớ nhà giàu có.”

Thẩm Thiều Quang hiểu ra, tám phần mười là khách hàng tới quán ăn thấy ngon nên cũng muốn tự chuẩn bị để ăn trong nhà. Nói cho cùng thì cũng là kẻ có tiền, nồi đắt như vậy mà mua một lúc hẳn năm cái.

Ở thời đại này còn chưa có ý thức gì về bản quyền, hơn nữa nồi lẩu này cũng không phải do nàng tự sáng chế, cũng không có ý định độc quyền nó, Thẩm Thiều Quang cười nói: “Ngươi cứ làm cho bọn hắn là được.”

Lúc đầu người thợ thủ công kia cũng không từ chối, chỉ biết rằng cô nương này là chủ quán rượu, sáng tạo ra thứ đồ đặc biệt này, bây giờ bị người ta bắt chước thì sợ là sẽ gây trở ngại cho nàng nên mới nói với nàng một tiếng, ít nhiều gì trong lòng cũng nhẹ nhõm hơn một chút. Bây giờ nghe nàng nói có thể làm cho người khác thì người thợ thủ công kia cười: “Cô nương thật là rộng lượng.”

Được người ta tặng cho cái thẻ người tốt, Thẩm Thiều Quang vui vẻ nhận lấy.

Thực ra không chỉ có lò rèn này nhận được đơn đặt hàng làm nồi lẩu mà lò rèn khác ở Tây Thị cũng được người ta đặt làm cái nồi tương tự thế này, chỉ là nồi này cao thấp lớn bé thế nào, kích thước khoang nồi ra sao đều đã trải qua sự kiểm chứng lâu dài của thời gian, nhìn qua thì có vẻ như không có yêu cầu gì cao, nhưng nếu nắm không rõ làm không tốt thì sẽ hoặc là không rút được lửa, hoặc là bị cháy dưới đáy nồi.

Cho dù khách nào may mắn được cái nồi thích hợp thì cũng phát hiện ra là sao của nhà mình ăn không ngon như ở quán rượu Thẩm Ký.

Cho nên ấy à, nồi chỉ là bước đầu tiên thôi! Còn có cả nước lẩu, gia vị, nguyên liệu…

Bọn ta là quán rượu chuyên nghiên cứu sáng tạo ra cái mới! Thẩm Thiều Quang không ngừng sửa cũ thành mới, làm ra cái nào bị bắt chước cái đó lại chẳng cái nào vượt qua được*.

Nghe xong câu danh ngôn thời hiện đại này của Thẩm Thiều Quang, A Viên ra sức gật đầu lia lịa, cảm thấy cô nương nhà mình đúng là chẳng có chỗ nào không tốt, người đẹp tấm lòng lại lương thiện, biết viết chữ biết tính toán, nấu ăn ngon mà vẽ tranh cũng đẹp, đến cả nói chuyện cũng có đạo lý.

* Câu nói tương tự: We create, others copy. We lead, others follow.

Vẻ mặt của A Xương không khác A Viên là mấy, cũng cười híp mắt gật đầu, Thẩm Thiều Quang thấy hai người này như vậy thì không khỏi nghĩ tới mấy con chồn mèo đứng xếp hàng ăn trái cây…

Thẩm Thiều Quang lúng túng giải thích với hai người họ: “Mấy lời này không phải do ta nói, là do ta đọc được thôi.”

Bây giờ tài ăn nói của A Viên đã khá hơn trước kia nhiều: “Vậy thì cũng là cô nương uyên bác.”

Bây giờ đổi lại người gật đầu lia lịa là A Xương.

Vu Tam nhìn mà bực mình, quay người đi vào trong bếp.

Thẩm Thiều Quang còn có thể nói cái gì? Chỉ có thể vui mừng vì số từ ngữ mà A Viên nói càng lúc càng nhiều, uyên bác… vậy thì cứ uyên bác đi.

A Xương là tôi tớ Thẩm Thiều Quang mới mua mấy hôm trước, mười bảy tuổi, người hơi nhỏ, đầu tròn mặt tròn, nếu không phải là hơi gầy thì đúng là có nét giống huynh muội ruột với A Viên. A Xương là tôi tớ nhà thương nhân, chủ nhân nhà họ đổi một người phu nhân mới, vị phu nhân mới này bán sạch đám tôi tớ cũ, bao gồm cả A Xương giữ nhiệm vụ trông cửa và quét sân.

Thẩm Thiều Quang để A Xương giúp việc vặt trong bếp như nhóm lửa, thái đồ ăn, rửa chén bát.

A Xương rất vui mừng trước công việc mới: “Làm trong bếp thì đúng là tốt quá!” Ngoại trừ những người hầu thân tín bên cạnh a lang, tiểu lang quân hoặc là người chạy việc cho phu nhân thì phòng bếp, phòng thu chi đều là sự lựa chọn tốt nhất đối với bọn nô bộc.

Với A Xương, làm trong bếp còn tốt hơn cả đi theo các lang quân hay phục vụ trong phòng thu chi, không phải dầm mưa dãi nắng, ai bị đói thì mặc kệ chứ chắc chắn người trong bếp sẽ không bị đói, với thời tiết thế này mà được làm tổ bên cạnh bếp lò, nếu còn có thể vùi vài củ khoai sọ trong than nữa thì thật là, chao ôi, có cho đổi làm thần tiên cũng không đổi!

Nói đến nỗi Thẩm Thiều Quang cũng phát thèm, đúng là đi mua về thật, ngoại trừ một ít để làm khoai sọ ngào đường ra thì đều đưa đi nướng cả. Đợi đến lúc nướng vừa thơm vừa mềm rồi, Thẩm Thiều Quang kéo theo A Viên và A Xương vây quanh bếp lò bóc ra ăn.

Bóc lớp vỏ bên ngoài đi, phần bên trong vẫn đang bốc hơi nóng, ăn thì nóng bỏng lưỡi, nhưng càng nóng thì lại càng muốn ăn, ăn tới nỗi cả miệng cả tay đều đen thui.

Vu Tam thấy ba người bọn họ thật chẳng khác gì ăn xin, bĩu môi, vẻ mặt một lời khó nói hết.

Thẩm Thiều Quang ăn xong, hơi hơi tiếc, tiếc là ở thời này còn chưa có khoai lang, nếu không thì còn ngon hơn nữa.

Công chúa Vu Tam dù không chịu “thông đồng làm bậy”, nhưng mà tài bếp núc thì quả thật là có thiên phú.

Thẩm Thiều Quang đang dạy Vu Tam hút nước dùng.

Nước dùng là một thứ thần kỳ, nhìn qua thì trong vắt nhưng lại vừa thơm vừa ngọt, hoàn toàn khác xa canh sữa vừa đặc vừa trắng, giống như một cái là một mỹ nhân trang điểm cầu kỳ, một lại chỉ phủ một lớp phù dung nhẹ nhàng, thực ra lớp trang điểm phù dung này không hề đơn giản hơn lớp trang điểm cầu kỳ kia chút nào, dù sao cũng phải đánh lừa con mắt người ta mà.

Lúc mới nhìn thấy canh sữa thì Vu Tam đã rất kinh ngạc, không ngờ có người có thể nấu canh thịt thành màu trắng như sữa bò như vậy, rồi đến lúc nhìn thấy nước dùng này thì lại càng cảm thấy thần kỳ hơn, nước canh lại có thể trong suốt như vậy!

Thẩm Thiều Quang kể cho hắn nghe câu chuyện nàng nghe được ở kiếp trước.

“Đầu bếp trong một quán rượu nọ giỏi nhất là làm đậu phụ, được mời tới nhà của một quý nhân làm đồ ăn chay. Nhà họ sợ hắn mang theo đồ không sạch, bị dính đồ mặn nên chủ nhà chuẩn bị đầy đủ mọi thứ nguyên vật liệu, ngay cả dao thớt cũng không cho hắn mang theo. Người đầu bếp kia đến đúng hẹn, dẫn hai người đồ đệ, trên vai chỉ có mỗi một tấm khăn trắng, đến tay không.”

“Món đậu phụ củ cải hôm đó thơm ngon không gì sánh được, chủ nhà khen, thưởng thêm tiền.”

Vu Tam nhìn nàng.

“Bí quyết nằm ở tấm khăn màu trắng kia. Nó đã được ngâm trong nước dùng, đến phòng bếp thì vắt nước dùng ra, dùng nước dùng này để hầm đậu phụ, đương nhiên là mùi thơm rồi.”

Vu Tam cau mày: “Vậy thì phải dùng khăn lớn cỡ nào mới có thể ngâm đủ nước dùng cho một bữa tiệc?”

“Nếu quá ướt, nước nhỏ giọt xuống thấm lên áo, vậy thì chẳng phải sẽ làm chủ nhà phát hiện ra sao?”

“…” Thẩm Thiều Quang thật sự không ngờ rằng Vu Tam lại là người chú ý logic như vậy!

Nghĩ ngợi một lúc, Thẩm Thiều Quang nói: “Thực ra lúc trước khi ta nghe người ta kể chuyện này thì trong đầu có một suy nghĩ là cái khăn đó vắt trên vai, cọ xát với y phục, có lẽ còn dính cả mồ hôi và bụi bặm – thế thì hơi bẩn.”

“…” Lần này đổi thành Vu Tam không nói được lời nào.

Nhưng Thẩm Thiều Quang cảm thấy điều này cũng không làm mất cái hay của câu chuyện, so với tính hồi hộp và tình tiết câu chuyện thì tính logic và đạo đức cũng không coi là cái gì!

Thẩm Thiều Quang lại quay trở về với đề tài cũ: “Nước canh của chúng ta không gặp vấn đề này, số lượng đủ nhiều mà cũng đủ sạch sẽ, cũng đủ cho chúng ta hầm rất nhiều đậu phụ rau xanh và rất nhiều nồi lẩu.”

Hút nước dùng còn phiền phức hơn cả hầm canh sữa, bởi vì có thêm một bước “hút”.

Chọn xương lợn, thịt gà, ninh lên bằng lửa nhỏ để nước canh luôn sôi lăn tăn – nếu để lửa lớn thì sẽ thành canh sữa, để lửa nhỏ quá thì lại không thể lấy được hết vị ngọt bên trong tủy xương, trong lúc ninh thì phải dùng muôi cẩn thận vớt sạch bọt, đến lúc ninh xong là đã có một nồi nước dùng thông thường rồi.

Nước dùng thế này là đã đủ để dùng bình thường rồi, nếu muốn đạt được hiệu quả trong veo trong vắt thì dùng một cái túi bằng vải bố chứa ức gà băm nhỏ bỏ vào trong nồi nước dùng để nó hút hết những thứ lơ lửng trong nồi nước dùng, nếu lặp lại bước này thêm một lần nữa thì gọi là “hút kép”, nồi nước dùng trở nên trong veo.

Có Thẩm Thiều Quang hướng dẫn, Vu Tam vừa làm lần đầu đã hút nước canh rất thành công, Thẩm Thiều Quang nở nụ cười hiền lành vui mừng như bà mẹ già, Vu Tam quay đầu nhìn thấy. Tài nấu nướng của cô nương đúng là tốt thật, nhưng mà cái tính cách này… Nghĩ tới hai tên khờ khạo ngoài kia, Vu Tam lắc đầu, thôi bỏ đi, thôi bỏ đi.

Nước dùng này là thích hợp nhất cho những người ăn chay kĩ tính, nhìn bên trong không có gì lạ nên ăn rất là ngon miệng.

Ngoài nước lẩu là canh sữa lúc ban đầu và cả nước dùng trong vắt này, Thẩm Thiều Quang lại lần lượt thêm các loại nước lẩu hải sản, nước lẩu nấm, nước lẩu từ đầu cá xương cá, rồi nước táo đỏ câu kỷ tử long nhãn… Có chay, có mặn, có hải sản thủy sản, có thuốc bắc, thích hợp để ninh lẫn lộn chung một nồi, thích hợp cho những người quái đản kiên quyết chỉ ăn một loại đồ nhúng như Lâm thiếu doãn. Lúc nào cũng luôn có đủ bảy tám loại, ha ha, chỉ cần ngươi tới thì chắc chắn có thể tìm được loại thích hợp với bản thân mình nhất.

Đồ nhúng cũng phải tìm ra cái đặc sắc của mình – các loại viên. Các loại thịt thái lát thì dễ bắt chước, nhưng nặn thành viên thì không dễ bắt chước như vậy.

Sao mà viên cá còn non mềm hơn cả đậu phụ nữa? Mỗi người gọi viên cá thì đều sẽ được nhắc nhở là “nhúng vào nồi rồi vớt ra ngay, nếu không thì sẽ bị tan”; viên thịt bò thì ngấm nước canh, vừa nóng vừa thơm; khác với viên cá, viên gà lại giòn giòn…

Lại còn đủ loại nước chấm…

Những người tự đặt làm nồi đồng phát hiện ra muốn ăn lẩu vẫn phải tới Thẩm Ký ăn, tự mình làm không làm ra được mùi vị như người ta.

Cũng có người tới quán rượu Vân Lai gọi món.

“Tại sao Vân Lai không có nồi lẩu? Quán rượu này còn to hơn Thẩm Ký cơ mà.”

Tiểu nhị bưng bê bối rối, chuyện này liên quan gì tới quán to quán nhỏ?

Hắn đi bẩm báo cho nhị chưởng quỹ Ngụy Tam, lần này Ngụy Tam không dám tự làm càn, cẩn thận đi bẩm báo cho Phùng chưởng quỹ.

“Hay là chúng ta sai người đi xem nồi lẩu rồi cũng đi đặt làm vài cái?”

Phùng chưởng quỹ nguýt hắn một cái: “Không biết khôn ra!” Hôm trước có người dò la về báo lại là Lâm thiếu doãn cùng một ông cụ đặt bao hết quán, Lâm thiếu doãn rất cung kính với người đó, chỉ sợ là quan to trong triều.

Chẳng mấy chốc nữa là tới tháng chạp, tổng quản phủ Triệu Vương là Lục quản sự theo Tào trưởng sử vào cung tặng đồ cống cho thánh thượng và tặng lễ mừng cho chư vị hoàng thân quốc thích, cũng tiện thể gặp người trong kinh một lần.

Phùng chưởng quỹ giấu chuyện trước đó, chỉ bẩm báo lại chuyện Thẩm Ký vi phạm quy củ và chuyện Lâm thiếu doãn cùng một vị có vẻ là quan to trong triều bao hết quán rượu.

Lục quản sự cảnh cáo: “Tuyệt đối không được trêu chọc quán rượu Thẩm Ký này, nghe ngươi miêu tả vị khách quý kia thì có vẻ như là Lý tướng công.”

Phùng chưởng quỹ chột dạ liên tục nói được.

Bây giờ nghe Ngụy Tam nói vậy thì vội vã trách cứ, dặn đi dặn lại rằng tuyệt đối không được có cái ý định này.

Thực ra cho dù không được Lục quản sự dặn dò thì Phùng chưởng quỹ cũng sẽ không đi đặt làm nồi lẩu như Thẩm Ký – học theo người chẳng thành còn quên cả cái vốn có.

Hết lần này tới lần khác bị người ta hỏi có món lẩu không, Phùng chưởng quỹ cười khổ, có cảm giác bị món lẩu quỷ quái này tấn công.

Một người khác cũng có cùng cảm giác bị món lẩu tấn công là Lâm thiếu doãn.

Đã sắp hết năm, phủ Kinh Triệu có mấy vụ án phải bàn giao cho bộ Hình. Bàn giao xong rồi, Lâm Yến và Tống thị lang bộ Hình cùng nhau đi ra khỏi nha môn, lại cùng đường về nhà.

Tống thị lang nói hắn có thứ tốt nhất định phải mời Lâm Yến đi nếm thử.

Tống thị lang là dòng chính của Tống thị ở Thái Nguyên, cha ông đều đứng hàng tam công*, bản thân hắn cũng xuất sắc hơn người cho nên bình thường khá kĩ tính, qua lại với Lâm Yến cũng coi như là thân thiết hơn các đồng liêu khác.

* Tam công là ba chức quan cao nhất thời phong kiến gồm thái sư, thái phó, thái bảo.

Tống thị là nhà quyền quý giàu có chân chính, cái gì có thể khiến hắn khen là “thứ tốt”? Lâm Yến bị hắn khơi dậy tính tò mò, đi nhìn xem thì là… lẩu, hơn nữa kiểu ăn của Tống thị lang còn là kiểu cái gì cũng ném hết vào trong nồi.

“Tiện mà dễ dùng hơn mấy cái đỉnh nhiều! Nghe nói là bắt nguồn từ một quán rượu, có người tặng ta hai cái, tốt lắm, tốt lắm luôn!”

Lâm Yến: “…”

Về đến nhà, tới chỗ bà nội ăn bữa chiều thì trên bàn ăn cũng bày một nồi lẩu, vẻ mặt bà nội rất hưng phấn: “A Yến, ngươi mau tới đây xem cái nồi lạ lùng này, hôm nay Bùi Thập Nhị mới cho người đưa tới.”

Lại nhìn một loạt đĩa chứa đủ thứ đồ nhúng bày bên cạnh, Lâm Yến: “… Rất tốt, rất tốt.”

 

 

Đăng trong Tiệm cơm nhỏ thành Trường An - Bánh Anh Đào

Tiệm cơm – Chương 32

Chương 32: Ba chương gộp một

Thẩm Thiều Quang sai Vu Tam leo thang thay biển hiệu ban đầu của cửa tiệm, treo tấm biển mới lên, A Viên đứng một bên chỉ huy: “Cao rồi, cao rồi, thấp rồi, thấp rồi…”, chọc cho Vu Tam quay đầu trừng nàng ta.

Đối với địch ý của A Viên, lúc đầu Vu Tam không mấy để bụng, nhưng sau đó có lẽ là cảm thấy mình làm vậy thì quá thiệt thòi, cũng có thể là vì cuộc sống trong tiệm quá buồn chán, cho nên cũng trả đòn lại, hai người mũi nhọn đấu dao sắc, y như một đôi oan gia.

Nhưng mà thế này cũng có cái hay, dưới sự kích thích của Vu Tam, tài ăn nói của A Viên tiến bộ vượt bậc, đã chẳng còn bóng dáng nàng tỳ nữ khờ khạo ngày xưa, điều này khiến Thẩm Thiều Quang hết sức vui mừng.

Thẩm Thiều Quang vừa chia bánh rán cho khách vừa xin lỗi trước: “Từ ngày mười lăm trở đi, tiệm ăn chúng tôi chính thức đổi thành quán rượu, sau này sẽ chuyên bán các loại rượu thịt, cũng có các loại bánh ngọt, chỉ là buổi sáng không bán đồ ăn sáng nữa. Mong các vị vẫn sẽ thường xuyên chiếu cố việc làm ăn của quán như trước giờ.”

Lập tức có người tỏ vẻ thất vọng: “Thế sau này bọn ta đi đâu mua đồ ăn sáng ngon thế này?”

Người bên cạnh cũng ghé miệng vào: “Ôi chao, cô nương có thể tiếp tục bán đồ ăn sáng không?”

“Tiểu lang quân nhà ta sáng nào cũng phải ăn bánh này xong mới chịu đi học, bây giờ đột nhiên nói với hắn là không có nữa, hắn lại không chịu đi học thì phải làm sao đây?”

Một chàng thư sinh áo trắng lắc đầu: “Ta sắp phải đi xa, vốn tưởng rằng lúc trở lại Trường An vẫn có thể được ăn bánh rán của cô nương, không ngờ rằng…”

Nghe được những lời tiếc nuối và khen ngợi này, Thẩm Thiều Quang cảm thấy vô cùng mãn nguyện. Có lẽ lòng người chính là như vậy, nếu ra đi mà không có níu kéo thì đúng là hơi thiêu thiếu, dù rằng có níu kéo cũng sẽ không thể thay đổi được ý định của người đi.

Nhưng sự tiếc nuối của một vị thực khách khác lại khiến Thẩm Thiều Quang có phần khó xử.

Từ sau hôm Liễu Phong đề thân không thành thì không còn tới tiệm nữa, hắn không tới nhưng có tôi tớ của hắn tới, vẫn mua một lèo mấy cái bánh rán như trước kia.

Đương nhiên Thẩm Thiều Quang cũng báo cho người tôi tớ này biết. Buổi chiều Liễu Phong đích thân tới chúc mừng Thẩm Thiều Quang, lại không khỏi tỏ vẻ tiếc nuối, cười nói: “Sau này khó mà được ăn bánh rán của cô nương nữa, không biết đám quỷ tham ăn trong nha môn phải làm sao đây?”

Ngoài mỉm cười đáp lại ra, Thẩm Thiều Quang cũng không biết nói gì, vị Liễu công tử này thật đúng là một quân tử.

Về chuyện ngừng bán đồ ăn sáng thì Thẩm Thiều Quang đã suy xét kĩ càng.

Hiện giờ thu nhập từ việc bán bánh rán chỉ chiếm một phần rất nhỏ, thế nhưng sức lực phải bỏ ra lại không ít, đêm hôm trước phải chuẩn bị, sáng hôm sau lại phải dậy sớm, bận bịu tới tận lúc mặt trời lên cao rồi lại phải mua đồ ăn chuẩn bị bữa trưa, một ngày ba bữa bận bịu đúng là hơi mệt, cho nên đã đến lúc phải đưa ra lựa chọn.

Huống hồ quán rượu thời này đều không bán đồ ăn sáng, nếu đã sửa lại thành quán rượu thì cứ tuân theo quy củ đi – tránh bị người ta bới móc đúng không? Thẩm Thiều Quang giễu cợt.

Mấy tháng nay Thẩm Thiều Quang vẫn nhớ chuyện quán rượu Vân Lai, nhưng khá ngạc nhiên là bên kia lại không hề có động tĩnh gì.

Chắc không phải là ấp ủ kế hoạch gì chứ? Hay là chuyện này vốn chỉ là hai tên phường đinh kia lừa nàng? Hay là… thật sự có “quý nhân” che chở cho nàng, đã giúp nàng giải quyết xong rồi? Thẩm Thiều Quang có cảm giác như từ điền văn nhảy sang truyện trinh thám.

Thật ra bên phía Vân Lai cũng rất buồn bực, nhất là khi thấy Thẩm Thiều Quang đường hoàng thay biển đổi thành quán rượu, Phùng chưởng quỹ không tài nào cười nổi nữa, cô nương trẻ đẹp có quý nhân che chở cho đúng là rất có khí phách.

Thẩm Thiều Quang không hề biết Phùng chưởng quỹ đã đặt nàng vào truyện ngôn tình sủng, quyết định vững bước trên con đường “làm ruộng” của mình.

Dựa vào quy mô, vị trí, trang hoàng trong tiệm và bản lĩnh của mình, Thẩm Thiều Quang định vị cho quán rượu Thẩm Ký trên thị trường là quán rượu đặc sắc hạng trung.

Phường Sùng Hiền là khu dân cư thuộc nhóm trung lưu trở lên, chưa nói tới những vị quan quyền quý và các thương gia giàu có, kể cả những hộ gia đình bình thường cũng có chút tiền dư dả. Ở chỗ thế này, tiệm ăn nhỏ cũ kĩ không chỉ lợi nhuận thấp mà còn dễ bị người ta chê, quán rượu lớn thì “cao siêu ít người hiểu”, đây cũng không phải Đông Thị Tây Thị, chỉ có người một phường e là nuôi không nổi – đương nhiên Thẩm Thiều Quang cũng mở không nổi, cho nên mở một quán rượu thường thường hạng trung vừa sạch sẽ vừa có nét đặc sắc hẳn là thích hợp.

Thực ra với chút diện tích của Thẩm Ký mà so với những quán rượu bậc trung như quán rượu Vân Lai thì vẫn còn nhỏ lắm, nhưng nghĩ tới lưu lượng khách trong phường cũng chỉ như thế mà thôi, từng đó cũng miễn cưỡng xem như đủ rồi.

Nói tới cấp bậc của quán rượu thì sẽ nói đến đồ ăn, cái này liên quan đến một định vị khác – đặc sắc.

Nét đặc sắc của quán rượu Thẩm Ký là món nhỏ làm to, hoặc theo như cách nói của Vu Tam thì là “lấy rẻ làm đắt”, thông qua quá trình chế biến tỉ mỉ, biến những nguyên liệu bình thường thành những món ăn hấp dẫn.

Các quán rượu bậc trung ở thời này chủ yếu bán các loại thịt như cá, thịt dê, thịt trâu, các quán rượu sang trọng thì ngoài bài trí xa hoa ra còn có các loại đồ ăn được chế biến tinh xảo hơn, nguyên liệu nấu ăn cũng cao cấp hơn, ngoài cá, thịt dê, thịt trâu ra còn có các loại đồ ăn cao sang như đuôi hươu, chân gấu, bướu lạc đà.

Thẩm Thiều Quang thì lại muốn chơi bài độc, kiên định với các món từ thịt lợn, cộng thêm các loại gia cầm như gà vịt – ở thời đại này, thịt gà không được coi là thịt, giá cũng rất rẻ.

Nhắc đến chuyện thịt gà không được coi là thịt thì còn có một câu chuyện cười. Một vị danh thần thời Trinh Quán là Mã Tuần rất thích ăn thịt gà, đi tới đâu cũng ăn thịt gà. Có người đi cáo trạng, Thái Tông nói: “Ta cấm ngự sử ăn thịt là sợ châu huyện tiêu phí, thịt gà thì có đáng là gì?” Nhìn xem, chính miệng Lý Nhị bệ hạ nói thịt gà không coi là thịt!

* Trinh Quán là niên hiệu của vua Đường Thái Tông (Lý Thế Dân).

Nghe nói thịt gà không được coi là thịt là bởi vì gà nhỏ, không cần tới đồ tể để chuyên môn giết gà. Thẩm Thiều Quang lại cảm thấy có thể là bởi vì nuôi gà tốn ít lương thực mà cũng bớt việc, cho dù là nông thôn hay thành thị đều có thể nuôi với số lượng lớn, cho nên thịt gà mới rẻ, và cũng chính vì rẻ cho nên mới không được coi là “thịt”.

Thực ra thịt gà và thịt lợn đều rất ngon, cũng hoàn toàn có thể chế biến ra các món ăn tinh xảo, làm tăng đẳng cấp của bọn chúng. Phất cao lá cờ chấn hưng thịt gà thịt lợn, Thẩm Thiều Quang cảm thấy trách nhiệm của mình thật trọng đại.

Để tương xứng với độ cầu kỳ của quá trình chế biến và giá cả món ăn thì Thẩm Thiều Quang còn đặc biệt đi tìm mua một loạt đồ sứ, có chén có ấm, có đĩa đủ ba cỡ nhỏ trung bình to, còn có tô canh, bát cơm, thìa, một đám trắng tinh tròn trịa, lớp men trơn mịn sáng bóng, không có hoa văn gì, mang đến một loại cảm giác giản dị mộc mạc.

Người bán đồ sứ nói rằng đây là sứ Hình Dao, Thẩm Thiều Quang thì không nghiên cứu về đồ gốm nên cũng không biết có phải thật không, nhưng nếu nói về chất lượng thì đúng là rất tốt, mà quan trọng hơn nữa là giá cũng không đắt.

Người bán đồ sứ nói, mặc dù Hình Dao là lò gốm nổi tiếng và lâu đời nhưng bây giờ đã dần suy thoái, bị rất nhiều người cho là Định Dao.

* Hình Dao là nơi sản xuất sứ trắng thời cổ đại ở Trung Quốc. Sứ Hình Dao xuất hiện lần đầu tiên từ thời Bắc Triều, phát triển nhanh chóng vào thời nhà Tùy và đạt tới giai đoạn hoàng kim vào thời nhà Đường, nổi danh là rẻ mà đẹp, được đặc trưng bởi lớp men trắng như tuyết, hình dạng tròn trịa như mặt trăng, mỏng mà bền, gõ vào có tiếng vang trong vắt. Sứ Hình Dao có ảnh hưởng rất lớn đối với nền văn minh vật chất của Trung Quốc nói riêng và toàn thế giới nói chung.

** Định Dao là một loại gốm sứ truyền thống của Trung Quốc, bắt nguồn từ huyện Khúc Dương (thuộc tỉnh Hà Bắc ngày nay), xuất hiện sau gốm sứ Hình Dao, là một trong sáu đại danh gốm thời Tống.

“Sứ Định Dao sao có thể vừa tròn trịa vừa mỏng như vậy chứ?” Người bán đồ gốm bất bình thay cho gốm sứ Hình Dao, trông y như trung thần bị oan vậy.

Thẩm Thiều Quang cười trả tiền, nhận được cái danh là Bá Lạc trong mắt người chủ cửa hàng đồ gốm.

* Bá Lạc là vị thần cai quản loài ngựa trong truyền thuyết, được dân gian dùng để chỉ những người tinh thông nhận biết tính chất của loài ngựa, về sau lại dùng để chỉ những người tinh mắt, có thể nhìn ra người tài trong một lĩnh vực nào đó.

Thẩm Thiều Quang lại nói chuyện với Vu Tam về cách bày biện trên đĩa, cách phối hợp màu sắc, về sức hấp dẫn của màu trắng… Nghe không kĩ lại tưởng là nàng đang dạy quốc họa cho Vu Tam.

“Theo cách bày biện của cô nương thì một đĩa có thể chia thành ba đĩa!” Vu Tam nhìn Thẩm Thiều Quang với vẻ hoài nghi.

Thẩm Thiều Quang bị người ta nghi là gian thương thì cũng không nổi giận: “Bớt đồ ăn không phải là mục đích chính, mục đích chính của chúng ta là đẹp. Đương nhiên cũng không thể vì hình mà làm tổn hại đến chất, dù sao người ta đến đây là để ăn cơm chứ không phải tới ăn cái đĩa.”

Vu Tam gật đầu, cảm thấy cô nương vẫn còn đường cứu chữa.

Thẩm Thiều Quang lại thúc giục Vu Tam luyện cách tỉa hoa từ củ cải, dưa chuột.

Người từng học quốc họa thì ít nhiều gì cũng có thể tự khắc được con dấu, Thẩm Thiều Quang từng tự khắc một con dấu chữ Thẩm, chính là con dấu để triện chữ lên túi bánh rán, nhưng nếu bảo nàng tỉa rau củ thì lại không tốt lắm, không ngờ rằng Vu Tam vừa làm đã đâu ra đấy, có hình có dạng, đúng là trời sinh khéo tay.

A Viên thấy bọn họ chơi vui thì cũng tham gia vào, tỉa một hồi, nhìn trong tay Vu Tam, lại nhìn trong tay Thẩm Thiều Quang, tức giận nhét của mình vào trong miệng, “rắc rắc, rắc rắc”, từ đó về sau chẳng bao giờ có ý định học tỉa hoa nữa.

Có vốn tích lũy từ tiệm ăn cũ, quán rượu của Thẩm Thiều Quang buôn bán thuận lợi suôn sẻ hơn hẳn các quán rượu mới mở – cả về lượng khách lẫn phương thức làm ăn của quán.

Buổi trưa thì việc buôn bán hơi kém hơn một chút, dù sao thì những người làm quan và buôn bán đều không tới, nhưng tới buổi chiều thì hầu như hôm nào cũng đầy khách, trong đó có không ít người giàu có.

Lúc Thẩm Thiều Quang đang tính sổ sách thì một ông lão mặc áo gấm phủ lông đi vào trong quán.

Bây giờ vẫn còn sớm, trong quán không có khách, Thẩm Thiều Quang mời ông lão tùy ý chọn chỗ ngồi, lại dùng khay nhỏ bưng một cốc đồ uống tới, cười nói: “Lão trượng uống chút nước táo đỏ câu kỷ tử nóng cho ấm người.”

Đã đến cuối thu đầu đông, không biết lúc nào thì sẽ có trận tuyết đầu mùa. Để khu hàn, Thẩm Thiều Quang dùng gừng, táo đỏ, câu kỷ tử nấu thành nước táo đỏ này, uống vào cả người đều sẽ ấm áp dễ chịu.

Từ sau khi có Vu Tam, lại không còn bán đồ ăn sáng nữa, Thẩm Thiều Quang trở nên nhàn nhã hơn không ít, thế là nấu chút đồ uống, có khách quen tới thì bưng lên vài cốc, sau rồi trở thành đồ uống miễn phí trong quán.

Nghe Thẩm Thiều Quang gọi “lão trượng”, ông lão cười xúc động, nói cảm tạ, bưng cốc nước lên uống, lại đưa mắt quan sát cách bài trí trong quán, ánh mắt rơi vào bức tranh quán nhỏ bên núi kia.

Thẩm Thiều Quang đưa thực đơn tới, ông lão nhìn chữ trên thực đơn, lại liếc mắt nhìn bức tranh kia: “Thực đơn này của cô nương là mời người nào viết?”

“Chỉ là quán nhỏ bên đường, không long trọng được như vậy, là do ta tùy tiện viết.”

Ông lão hơi ngạc nhiên nhìn Thẩm Thiều Quang: “Vậy bức tranh trên tường cũng là do cô nương vẽ?”

“Phải, vẽ linh tinh mà thôi, đã để lão trượng chê cười rồi.”

“Không biết sư phụ của cô nương là người nơi nào?” Nói xong thì tự mình nở nụ cười trước, trong lòng lại hơi run run, chủ một cửa hàng nhỏ thì sư phụ có thể là người phương nào chứ, có lẽ cô nương này cũng chỉ là con cháu trong nhà danh gia vọng tộc sa sút mà thôi, lại nghĩ đến tên quán “Thẩm Ký”, bèn cẩn thận quan sát Thẩm Thiều Quang, như thể muốn nhìn ra một bóng dáng khác từ trên người nàng.

Thẩm Thiều Quang nói bậy: “Là một nương tử giã gạo họ Lý.” Thực ra cũng không tính là nói bậy, đó là một cung nữ dạy học hơn bốn mươi tuổi, quả thật trước kia từng phụ trách công việc giã gạo, cho dù sau đó đã chuyển sang dạy học nhưng những vết chai trên tay vẫn còn nguyên đó.

Ông lão không thể nhìn ra bóng dáng cũ nào từ trên mặt cô nương xinh đẹp này, cũng chỉ có thể gật đầu, dân gian không thiếu người tài ba cũng không ít những cuộc gặp gỡ kém duyên, hôm nay trở lại chốn cũ, trong lòng vẫn canh cánh chuyện năm xưa nên thấy cái gì cũng sinh lòng nghi hoặc.

Ông lão tùy ý gọi mấy món chiêu bài của quán như “sư tử đầu”, “thịt mã não”, “ức gà nấu cà”, “gà rán”, “canh cá thịt dê”, “thịt phù dung”, lại gọi thêm “cá chua ngọt”, “rau cải xào”, “rau cần nộm muối chua”, “đậu phụ bát bảo”, còn thêm một giác rượu.

This slideshow requires JavaScript.

Đồ ăn lần lượt được chuẩn bị xong, A Viên bưng lên từng đĩa, đặt lên bàn.

A Viên lớn lên ở chốn phố phường, tính tình cũng qua loa đại khái, mặc dù Thẩm Thiều Quang cũng dạy nàng ta đôi chút nhưng động tác vẫn khó tránh khỏi không đủ cẩn thận, ông lão hơi nhíu mày một chút nhưng cũng không nói gì.

Thẩm Thiều Quang nhận lấy ấm nước nóng trong tay A Viên, cười nói: “Ta hâm trước cho lão trượng một ấm vậy?”

Ông lão gật đầu.

Thẩm Thiều Quang ngồi xuống bên cạnh, chậm rãi rót nước nóng vào trong khay hâm rượu, ước chừng thời gian, thử đưa tay chạm vào thành ấm, thấy nhiệt độ thích hợp thì cầm ấm rượu lên, lắc lắc một chút để rượu trong ấm nóng đều, dùng một chiếc khăn vải trắng như tuyết lau qua bên dưới đáy ấm, sau đó mới rót cho ông lão một bát.

Ông lão mỉm cười gật đầu một cái, nhưng lại khen cái khác: “Thịt mã não của cô nương làm tốt lắm.”

Còn chưa ăn mà đã nói tốt thì hoặc là nịnh nọt hoặc là đã từng ăn, ông lão này chắc hẳn là vế sau.

Thẩm Thiều Quang cười híp mắt nói cảm ơn, lại mời khách chậm rãi thưởng thức, sau đó xách ấm nước đi vào bếp.

Thực ra trong quán thường chỉ bưng khay hâm rượu lên, đổ nước nóng, sau đó sẽ không màng đến nữa, để khách tự mình hâm rượu, nhưng vừa rồi động tác của A Viên hơi mạnh, hình như đã khiến người ta không vui, Thẩm Thiều Quang đành phải tự mình đi bù đắp.

Chắc hẳn ông lão này không phải nhà giàu có thì cũng là bậc quyền quý, quy củ trong nhà rất nghiêm, tôi tớ tỳ nữ trong nhà đều nhỏ nhẹ, chưa từng thấy ai như A Viên…

Thẩm Thiều Quang bao che khuyết điểm, cảm thấy mặc dù động tác của A Viên hơi mạnh nhưng cũng không coi là thô lỗ, cùng lắm cũng chỉ xem như là… thẳng thắn đáng yêu, nhưng xem ra người khác không nghĩ như vậy. Ôi chao, cái nghề phục vụ…

Thẩm Thiều Quang lại thấy nghi hoặc, ông lão này không giàu cũng quyền quý, thế nhưng tại sao bên cạnh lại không dẫn theo tùy tùng nô bộc mà lại một mình chạy ra bên ngoài uống rượu?

Đang nghĩ ngợi thì tôi tớ của ông lão tới, còn dẫn theo một người quen – Lâm thiếu doãn.

“An Nhiên à, tới đây!” Ông lão cười gọi Lâm thiếu doãn.

Lên tiếng gọi, nhìn thấy Lâm thiếu doãn nhưng vẫn ngồi yên, e rằng không chỉ tuổi tác cao mà thân phận cũng cao, Thẩm Thiều Quang đoán, vị này chắc hẳn là quan to trong triều, ít nhất cũng phải tam phẩm trở lên.

Quả nhiên, Lâm thiếu doãn đi tới hành lễ, gọi là “Lý tướng công”.

Ồ! Là tể tướng đương triều.

Hai vị quan lớn hàn huyên, tôi tớ của vị tể tướng kia đi tới yêu cầu bao cả quán.

Thẩm Thiều Quang cười đồng ý, chuyện bao quán này là thích nhất, làm việc ít mà vẫn lấy được tiền. Nàng lập tức lấy giấy bút ra nhanh tay viết mấy chữ “Khách đã bao quán, kính xin thứ lỗi”, tự mình dán lên tấm biển trước giờ dùng để quảng cáo món ăn, xách ra treo trước cửa.

Gió len lỏi vào trong cổ áo, Thẩm Thiều Quang khép cổ áo lại, nhìn lên trời, sắc trời hơi âm u, chưa biết chừng mai sẽ có tuyết rơi. Nàng đi vào bên trong, thuận tay đóng kín cửa, hạ tấm rèm lông cừu trước cửa xuống, lại đi vào phòng bếp dặn dò Vu Tam và A Viên mấy câu, mong cho khách ăn ngon miệng, ngoài phí đặt bao thì sẽ cho thêm chút tiền trà nước – kẻ có tiền thích tiêu pha mà.

Trở lại sau quầy mới phát hiện ra là quên bưng nước táo đỏ câu kỷ tử lên cho Lâm thiếu doãn, nhưng thấy bọn họ đã bắt đầu ăn uống thì cũng thôi, chỉ luẩn quẩn trong quầy.

A Viên bưng đĩa cá sốt chua ngọt đi tới, lần này động tác đã nhẹ nhàng hơn nhiều, Thẩm Thiều Quang tự nhủ đúng là trẻ nhỏ dễ dạy.

Lý Duyệt nếm thử một chút cá sốt chua ngọt: “Mùi vị tươi ngon, có hương vị như mưa bụi Giang Nam!”

Lâm Yến mỉm cười, cũng gắp một đũa, quả thật là tươi mới lại thanh dịu, khác hẳn mùi vị đậm đà của các món cá trong kinh thành, hơi giống món cá thái lát. Lâm Yến liếc mắt nhìn bà chủ quán phía sau quầy, đầu lưỡi của bà nội đúng là nhạy bén thật, quả thật Thẩm Ký đã đổi đầu bếp.

“Khi đó nhàn hạ, chèo thuyền trên hồ, cho dù có chút mưa nhẹ cũng không về. Khoác áo tơi cài nón lá cả một buổi kiểu gì cũng câu được mấy con cá, chủ yếu là cá chép và cá diếc, thỉnh thoảng cũng có cá mè, có lần còn câu được một con cá rô bốn mang, chỉ tiếc là không có ai chia sẻ.” Nụ cười của Lý Duyệt dần nhạt đi.

Dừng lại một chút, Lý Duyệt lại cười nói tiếp: “Lúc còn ở Giang Nam thường nhớ tới tương dầu ở trong kinh thành, nhớ mùi bánh nướng vừng buổi sáng, nhớ cả thịt dê trong quán rượu người Hồ ở Tây Thị, bây giờ trở về kinh rồi thì lại nhớ canh rau nhút nhớ cá rô. Con người thật đúng là kỳ lạ.”

Giọng Lâm Yến chậm rãi: “Giang Nam ẩm ướt ấm áp, trong kinh thành thì bốn mùa đều khô, ẩm thực nơi nào cũng liên quan chặt chẽ với khí hậu và sản vật nơi đó…”

Thẩm Thiều Quang vừa tính toán sổ sách vừa dỏng tai lên nghe người ta nói chuyện phiếm. Ha ha, vị tể tướng này văn nghệ cỡ nào thì vị thiếu doãn kia chả hiểu phong tình cỡ đó!

Lão tướng công nói Giang Nam mưa bụi, thuần lư chi tư, Lâm thiếu doãn lại nói nhập gia tùy tục, đất khác ăn khác, loáng thoáng như nói thơ ca đi trái với tự nhiên… Lâm thiếu doãn thật đúng là uổng phí cái khuôn mặt như thơ như họa của mình.

Thẩm Thiều Quang lén nhìn khuôn mặt vị tể tướng kia, đúng là một ông cụ đẹp lão, mặt mày hiền lành lại có nét phóng khoáng, đoán chừng ba mươi năm trước cũng làm xiêu lòng bao nhiêu cô nương. So với vị chân giò muối Kim Hoa lâu năm đích thực này thì Lâm thiếu doãn chỉ có thể xem là hàng nửa năm chưa đủ độ mà thôi, “thiếu nữ văn nghệ” Thẩm Thiều Quang lập tức nảy lòng chê bai vị thiếu doãn này.

Lý Duyệt thì lại không chê, hơi thở dài, gật đầu: “Ngươi nói rất phải! Nghĩ nhiều rồi lại tiếc nuối nhiều.”

Rốt cuộc khuôn mặt lạnh tanh của Lâm Yến cũng không khống chế được hiện lên chút tiếc nuối, nhưng rồi lại nhanh chóng bình thường trở lại.

Không biết là do trời âm u hay là trời càng ngày càng mau tối mà trong quán dần tối đi, Thẩm Thiều Quang bưng giá cắm nến đi tới, đặt ở cách hai vị khách một khoảng không xa, cũng thắp mấy cái đèn trên vách, hâm nóng rượu cho hai người lần nữa.

Nhìn động tác nhẹ nhàng tao nhã của cô nương trong quán, lại nhìn khuôn mặt dịu dàng thanh cao của nàng, Lý Duyệt đột nhiên nhớ tới việc nàng gọi mình là “lão trượng”, cười nói: “Cũng không trách được ta cứ nhớ nhung chuyện quá khứ! Vừa bước chân vào quán, nghe cô nương gọi ta là “lão trượng” ta còn hơi ngẩn ra, thì ra mặc dù không “phát phẫn vong thực, lạc dĩ vong ưu” thì cũng “lão chi tương chí” rồi.”

* Trích Luận Ngữ: “Diệp Công vấn Tử Lộ ư Khổng Tử, Tử Lộ bất đối. Tử viết: Nhữ hề bất viết, kỳ vi nhân dã, phát phẫn vong thực, lạc dĩ vong ưu, bất tri lão chi tương chí vân nhĩ.” Giải nghĩa là: Diệp Công hỏi Tử Lộ về Khổng Tử, Tử Lộ không đáp. Khổng Tử (biết vậy) nói với Tử Lộ: Sao ngươi không nói thầy của ngươi theo đạo nhân, lo lắng quên ăn, vui quên cả sầu, chẳng hề biết tuổi già đã đến.

Lý Duyệt thành gia lập thất muộn, con trai con gái đến giờ vẫn chưa thành gia, chưa có đời thứ ba, bình thường đồng liêu đều gọi bằng chức vụ, đột nhiên nghe người ta gọi “lão trượng” thì không khỏi hơi ngỡ ngàng.

Thẩm Thiều Quang ngừng tay, sau đó cầm khăn vải lau đáy ấm rượu, nhẹ nhàng rót rượu cho Lý tướng công: “Mời lang quân dùng.”

Lý Duyệt và Lâm Yến đều ngẩn người một lúc, sau đó Lý tướng công bật cười ha hả, đến cả Lâm Yến cũng nhịn không được.

“Cô nương ngươi thật là…” Lý Duyệt chỉ chỉ Thẩm Thiều Quang, cười nói: “Thật đúng là tinh ranh.”

Thẩm Thiều Quang mặt dày, cười đáp: “Trước đó là ta gọi sai.”

Lý Duyệt lại bật cười.

Lâm Yến liếc mắt nhìn Thẩm Thiều Quang, vừa rồi lúc rót rượu còn có đôi phần dáng vẻ của cung nữ, bây giờ cười lên mặt mày cong cong lại trông giống một đứa bé nghịch ngợm, lại nhớ tới những màn ăn nói đặc sắc trước đây của nàng thì không khỏi lại lần nữa đóng cho Thẩm Thiều Quang cái dấu “dẻo mồm dẻo mép”.

A Viên lại bưng gà rán lên, Thẩm Thiều Quang đặt lên bàn, cười nói: “Món này là dùng gà non ba tháng luộc lên, sau đó chưng cách thủy, cuối cùng mới chiên lên, bên ngoài giòn mà bên trong lại mềm, nên ăn nhân lúc còn nóng, mời hai vị lang quân thưởng thức.” Nói xong thì hơi khom người, lui về phía sau quầy.

Hôm nay Lý Duyệt tới phường Sùng Hiền, trở lại chốn cũ, nhớ tới rất nhiều chuyện trước kia, lại thêm sự ủy thác của bạn cũ, đối diện với Lâm Yến mới buồn bã cảm khái, nào ngờ tâm trạng buồn bã cảm khái đã bị một câu “lang quân” của Thẩm Thiều Quang đuổi mất hơn nửa, Lý Duyệt cũng không nhắc tới chuyện không vui nữa, ngược lại dốc lòng hoàn thành nguyện vọng do bạn cũ nhờ cậy.

“Năm nay An Nhiên bao nhiêu rồi?” Đề thân với người ta luôn bắt đầu từ việc hỏi tuổi tác.

“Yến hai mươi lăm rồi.”

“Tới lúc nên cưới vợ rồi. Thái phu nhân trong nhà đã vừa ý ai chưa?”

Thẩm Thiều Quang suýt nữa thì vỗ tay tán thưởng, ta đã bảo là tài nấu nướng của ta đã kéo chân một nửa vị tiên mà. “Tất đắc giai phụ” rõ ràng là đã ứng nghiệm, tể tướng làm mối thì nhất định phải là quý nữ danh gia vọng tộc.

“Yến không biết.” Lâm Yến trả lời.

Không biết chính là không có, Lý Duyệt cười nói: “Mấy hôm trước ta tới nhà Tần phó xạ uống rượu, thấy ngũ nương nhà hắn càng lớn càng xinh đẹp. Lần trước gặp vẫn chỉ là một đứa bé cao ba thước, thắt hai bím tóc, vậy mà đã có thể học thuộc toàn bộ “Luận Ngữ”, “Kinh Thi”, làm mấy bài thơ ngắn, chỉ là hơi nghịch ngợm. Lần này gặp lại đã là một cô nương xinh đẹp, tính tình cũng trầm ổn…”

Lâm Yến chỉ nghe.

“An Nhiên đã gặp qua ngũ nương Tần gia này chưa?” Lý Duyệt lại vòng vo, nhướng mày cười hỏi.

“Yến đã từng gặp qua vị cô nương này.”

Lý Duyệt cứ như vậy cười nhìn hắn.

Lâm Yến nhếch miệng, nghiêm mặt nói: “Trong nhà Yến suy sút, e là không xứng với Tần cô nương.”

Thẩm Thiều Quang dừng bút, quý nữ như Tần ngũ nương vừa xinh đẹp lại có tài, thế mà cũng không bằng lòng? Cho nên quả nhiên là trong lòng Lâm thiếu doãn vẫn đang hoài niệm vị hôn thê của hắn, tình thâm không gì lay động được? Đúng là nam nhân tốt…

Một lát sau, Lý Duyệt hỏi: “An Nhiên vẫn còn để ý chuyện năm đó Thôi thượng thư bị lưu đày, Tần phó xạ không ra tay giúp đỡ sao?”

Lâm Yến nhìn về phía Lý Duyệt, một lát sau mới nói: “Yến cũng không dám trách ai, chỉ là… cách làm việc của Yến và Tần gia khác biệt, cho dù có kết thân cũng khó vui vẻ hạnh phúc.”

Lý Duyệt cũng không phải là người có tính khí tốt, nhưng đối với vị vãn bối này lại rất có lòng kiên nhẫn.

Nhìn tấm rèm buông trước cửa, Lý Duyệt chậm rãi nói: “Từ sau khi về kinh tới giờ, đây là lần đầu tiên ta tới Sùng Hiền Phường, năm đó thì cứ vài ba ngày lại tới một lần. Trong phường này có hai vị cố nhân của ta, trong đó có một người ngươi biết, chính là Tây Liễu tiên sinh ở thư viện Quảng Bình.”

Tây Liễu tiên sinh là đại nho đương thời, chừng mười năm trước thì từ quan về dạy học, rất được đám sĩ tử tôn kính.

“Nhà hắn ở ngay phía sau nhà ngươi, hình như bây giờ đã là một cái am rồi.”

Lâm Yến hơi ngạc nhiên, trong thành Trường An này không thiếu quý nhân quyên nhà cho các vị tăng ni, chỉ là không ngờ rằng Tây Liễu tiên sinh cũng làm thế, lại còn ở gần hắn như vậy.

Lâm Yến chờ Lý Duyệt nói về một vị cố nhân khác, nhưng Lý Duyệt lại không nói.

“Lúc đó chúng ta thường cùng nhau uống rượu, ở ngay nhà Sở Cửu.” Tây Liễu tiên sinh họ Sở, đứng hàng thứ chín.

“Sở Cửu trẻ hơn bọn ta, chỉ mới hai mươi mấy tuổi, còn chưa cưới vợ.” Lý Duyệt nhìn Lâm Yến, cười nói: “Giống như ngươi vậy.”

Lâm Yến mỉm cười một cái.

“Trong nhà ngươi còn có bà nội, còn trong nhà hắn thì hắn là lớn nhất, cho nên bọn ta toàn tới nhà hắn, uống rượu múa kiếm, ngâm thơ hát khúc… Mãi cho tới khi xảy ra chuyện Ngô Vương.”

Thẩm Thiều Quang nắm chặt cây bút trong tay, chuyện Ngô Vương xảy ra, Sở Cửu… Vị bằng hữu còn lại của Lý tướng công chắc hẳn là phụ thân của nguyên thân, hoặc cũng có thể nói là vị phụ thân chưa từng gặp mặt của nàng ở kiếp này.

Cố gắng lục lại trí nhớ, ký ức còn sót lại liên quan tới vị thúc thúc họ Sở này là một người trẻ tuổi với khuôn mặt chữ điền chính trực, mặc dù tướng mạo đoan chính nhưng lại thích lén lút nhét kẹo mạch nha vào trong tay đám trẻ con – có lẽ đây là nguyên nhân khiến nàng vẫn còn có thể nhớ được hắn, nhưng lại không hề có chút ký ức nào về chuyện nhà của hắn chính là am Quang Minh hiện giờ, chắc là mỗi lần phụ thân tới đó đều không mang hài tử theo.

Thẩm Thiều Quang nhìn Lý tướng công, cũng không có ấn tượng gì.

“Ngô Vương là người phong nhã, bọn ta đều có qua lại với hắn.” Nhắc đến vị vương gia từng làm phản thời tiên đế này, Lý Duyệt cũng không hề có vẻ kiêng kỵ, quả thật chuyện này năm đó đã hơi thiếu căn cứ, đến giờ bản án vẫn chưa được lật lại, một mặt là vì tiên đế đã khâm định, mặt khác cũng có chút nhân tố thực tế.

“Trong đó Thẩm Ngũ và hắn là ngâm thơ xướng họa nhiều nhất, cũng hiểu nhau nhất. Lúc Ngô Vương gặp chuyện không may, bọn ta đều nghĩ cách cứu giúp, Thẩm Ngũ thì có lòng nhất, chạy khắp nơi xin giúp đỡ, còn quỳ gối trước cung Đại Minh trần tình cho Ngô Vương, nói rằng người nhàn tản thích tiêu dao như Ngô Vương không thể nào có lòng làm phản được. Bậc thềm trước điện chính là nơi Thẩm Ngũ đổ lệ.”

Lâm Yến mím chặt môi, năm đó bản thân hắn vì chuyện của Thôi sư mà lòng như lửa đốt, gặp trắc trở đủ bề, giống Thẩm Ngũ cỡ nào, chỉ tiếc rằng năm đó hắn vẫn chỉ là quan nhỏ chức thấp, không thể gặp mặt thánh thượng, không thể trần tình trước thềm điện…

“Hành động của Thẩm Ngũ chọc cho tiên đế giận dữ, sau đó…” Lý Duyệt nhắm chặt mắt, không nói tiếp được nữa.

Dừng một lúc, giọng Lý Duyệt mới ổn định trở lại: “Lúc Thôi thượng thư gặp chuyện không may, nghe người ta nói ngươi cũng vì hắn mà chạy vạy khắp nơi, cho nên ta mới nhớ tới người kia.”

Lâm Yến gật đầu, cũng hiểu ra được một chút tại sao vị tướng công này lại coi trọng hắn như vậy, thì ra là vì giống với bạn cũ của hắn. Lại tính thời gian, Lý tướng công bị giáng chức đi Giang Nam, Sở tiên sinh phẫn nộ từ quan, chắc hẳn đều liên quan tới chuyện này.

Lý tướng công lại quay trở lại nói về Tần phó xạ: “Năm đó Tần Thập Tam cũng từng nói đỡ cho Ngô Vương, cũng bị tiên đế quát mắng trước mặt mọi người, cũng không phải là…”

Lý Duyệt ngẫm nghĩ: “Thôi thượng thư gặp chuyện không may, Tần Thập Tam không giúp ngươi có lẽ là vì bị chuyện Thẩm Ngũ dọa sợ.” Lý Duyệt không nói tiếp rằng, cũng có thể là vì sự điên cuồng của tiên đế trong mấy năm cuối dọa cho sợ.

“Hắn cũng không phải người vô tâm thiếu đức.”

Lâm Yến đứng lên, trịnh trọng hành lễ với Lý tướng công: “Đa tạ tướng công đã báo cho biết những chuyện này, Yến vô cùng cảm kích.”

Lý Duyệt nâng tay lên ý bảo hắn ngồi xuống: “Nói với ngươi những cái này cũng không hẳn là vì nói giúp cho cô nương nhà Tần Thập Tam, cũng có phần vì hôm nay trở lại phường Sùng Hiền này, trong lòng xúc động, thật sự muốn tìm người nói chuyện.”

“Mấy năm trước chân ta bị thương, bây giờ cứ trở trời là đau nhức khó chịu, trong lòng thỉnh thoảng cũng đau nhói, có lẽ cũng chỉ vài năm nữa thôi sẽ xin từ quan. Ba mươi năm chìm nổi trên quan trường, cuối cùng cũng đầu xuôi đuôi lọt, trong lòng lão hủ cũng được an ủi. Tần Thập Tam cũng chẳng còn bao lâu nữa là đến tuổi nghỉ hưu rồi, mấy vị cựu thần khác cũng vậy, về sau triều đình này còn phải nhờ cậy đám người trẻ tuổi các ngươi gánh vác.”

Lâm Yến cung kính nghe.

“… Phải cẩn thận hơn nữa mới được.”

Mấy năm nay làm quan, Lâm Yến cũng đã dần mất đi nhiệt huyết năm đó. Lời dặn tha thiết của Lý tướng công giống như của một người trưởng bối chân chính đối với bậc vãn bối của mình, lại cũng giống như lời năm đó Thôi sư dặn hắn, Lâm Yến đón nhận sự gửi gắm của hắn, gật đầu cung kính nói được.

Lâm Yến đột nhiên hỏi: “Xin hỏi tên và tước hiệu của vị Thẩm công này?”

“Thẩm Khiêm, xuất thân từ Thẩm thị ở Lạc Hạ, đứng hàng thứ năm, năm đó lúc gặp chuyện không may thì đang đảm nhiệm chức thị lang bộ Lễ.”

Lâm Yến mở mắt ra lớn hơn nữa, chậm rãi gật đầu, lại hơi nghiêng đầu nhìn về phía quầy hàng, ánh đèn mờ nhạt chiếu nghiêng lên mặt nàng, khuôn mặt trang nghiêm trầm tĩnh, cán bút trong tay nàng đong đưa, không biết là đang viết hay tính toán cái gì.

Lâm Yến lại quay mặt trở về, rót cho Lý tướng công một chén rượu, lại tự rót cho mình một chén.

Cũng chỉ là ôn lại chút chuyện năm xưa, hai người cứ thế uống cạn một giác rượu, lúc ra cửa, bước chân Lý tướng công hơi lảo đảo, Lâm Yến và người tôi tớ kia mỗi người đỡ một bên.

Thẩm Thiều Quang dẫn A Viên đưa tiễn: “Quý khách đi thong thả.”

Lâm Yến quay đầu, đối diện đôi mắt hơi ửng đỏ nhưng vẫn gắng cong lên vờ như vui vẻ kia.

Lâm Yến gật đầu với nàng.

Không biết nô bộc của Lý tướng công đã mang xe đến chờ sẵn ngoài quán từ lúc nào, tôi tớ của Lâm Yến cũng đã đợi sẵn. Lâm Yến cáo biệt với Lý tướng công, nhìn theo xe hắn dần đi xa.

Lâm Yến xoay người sang hướng khác, lại quay đầu nhìn bóng dáng gầy nhỏ bên dưới ánh đèn chập chờn, sau đó chậm rãi đi về nhà, tôi tớ cũng yên lặng đi theo phía sau.

Vào cửa, nhìn rừng trúc xào xạc trước sân, Lâm Yến đột nhiên quay đầu dặn Lưu Thường đi theo đằng sau: “Tra thử xem trong phường này có người nào họ Thẩm mười năm trước làm quan từ ngũ phẩm trở lên.”

Lưu Thường hành lễ đáp lại: “Vâng.”

Chu quản gia cười nói: “Chủ cũ của tòa nhà này hình như là họ Thẩm.”

Lâm Yến dừng chân, quay đầu lại.

“Lão nô nghe một chủ hộ lâu năm trong phường này nhắc tới một lần, tới giờ vẫn nhớ.” Sau đó thấp giọng nói: “Hình như nhà họ gặp chuyện.”

Lâm Yến gật đầu, tiếp tục đi vào. Đi tới trước viện của bà nội thì bên trong đã tắt đèn, vú già gác đêm đi ra, nhỏ giọng bẩm báo với Lâm Yến về chuyện ăn, ngủ của thái phu nhân, cũng không có gì đặc biệt, Lâm Yến dặn dò mấy câu rồi quay đi.

“A lang không về phòng sao?” Lưu Thường hỏi. Viện của Lâm Yến ở ngay bên cạnh viện của thái phu nhân để tiện chăm sóc, nhưng rõ ràng đường bây giờ không phải đường về trong viện.

“Mới ăn cơm xong, ta đi tản bộ một lát. Các ngươi giải tán hết đi.” Lâm Yến phân phó.

“Ta cầm đèn lồng cho a lang vậy?”

“Không cần đâu.” Lâm Yến nhận lấy đèn lồng trong tay Lưu Thường.

Tất cả đám tôi tớ theo hầu đều hành lễ rồi lui xuống.

Lâm Yến chậm rãi đi tới đình nghỉ mát trong vườn, ngồi cạnh bàn cờ bằng đá.

Tối nay bầu trời hơi u ám, không trăng không sao, cả vườn hoa và cây cỏ đều trở nên đìu hiu, chỉ có mấy dây leo vướng víu nhau đu đưa trong gió, cảnh vật đều trở nên vắng vẻ thê lương.

Đèn lồng được treo trên lan can, có thể nhìn thấy thấp thoáng mấy vết khắc cũ trên cây cột sơn đỏ, bên cạnh ghi chú mấy chữ “A Tề ba tuổi”, “A Tề năm tuổi”, “A Tề sáu tuổi”, “A Tề tám tuổi”, cao hơn một đoạn thì có hai nét khắc “A Chương mười một tuổi” và “A Chương mười ba tuổi”, vết khắc rất tùy ý, lộ rõ khí khái ung dung phóng khoáng.

Lâm Yến từng nhìn thấy nét chữ của người bán tòa nhà này, đoan chính câu nệ, không phải như thế này.

“A Tề…” Lâm Yến loáng thoáng như nhìn thấy một đôi mắt hạnh sáng long lanh.

“Năm đó khi Bàng quân sư đi theo tiên chủ hẳn là cũng oan ức lắm nhỉ, dù sao tiên chủ cũng chỉ là kẻ buôn giày dệt chiếu thôi mà.”

“Nếu cô nương là Chức Nữ thì sẽ làm sao?”

“Đánh hắn! Đánh tới lúc hắn khóc gọi mẹ mới thôi!” Thẩm Thiều Quang hung dữ đáp lại.

“Là nhờ đâu chứ? Là vì ở giữa có chi phí giáo dục của “mẹ nuôi” đó! Cũng giống như thịt lợn của chúng ta…”

Ai biết được rằng phía sau sự tinh ranh giảo hoạt, khí thế ngạo mạn và dương dương tự đắc kia lại là thân thế bi thương như vậy…

Lâm Yến cũng đã từng gặp con cháu của nhiều tội thần, phần lớn đều hoặc là dè dặt cẩn thận tới mức nhút nhát, hoặc là hận đời đến mức đáng thương, hiếm có người vẫn nở rộ rực rỡ như vậy, không biết là vì tính tình cứng cỏi hay là… trời sinh đã vô tâm?

Thật ra vô tâm cũng tốt, Lâm Yến nhớ tới Thôi Ninh, nếu lúc đó nàng ấy có thể… Lâm Yến nhắm mắt lại, mà thôi, ai có số mệnh của người nấy.

Lục tham quân của ty Kinh Triệu làm quan trong kinh đã nhiều năm, biết rất nhiều chuyện cũ trong kinh thành, lại rất thích nói chuyện, Lâm Yến tùy ý nhắc tới, hắn liền tuôn ra một tràng.

“Thẩm thị lang kia tuổi tác cũng xấp xỉ hạ quan, là con cháu Thẩm thị ở Lạc Hạ, thi đậu tiến sĩ, văn thải phong lưu, con người cũng tuấn nhã…”

Lúc Lâm Yến tra chuyện cũ của Thẩm gia thì Thẩm Thiều Quang đang nghiên cứu món lẩu.

Hôm đó nghe nhắc tới mấy chuyện cũ trong nhà, lại đối chiếu với những người những chuyện còn sót lại trong đầu, không biết là sự việc thật sự khiến người ta bi thương hay là vì máu mủ tương liên mà Thẩm Thiều Quang cứ buồn bã trong lòng, mấy đêm liền còn nằm mơ thấy chuyện lúc còn nhỏ của nguyên thân.

Một đứa bé nho nhỏ, có lẽ chính là nàng, nhưng lại cũng không giống là nàng, người cha nhân từ, người mẹ nhã nhặn thanh cao lại hơi kiêu ngạo, người ca ca tính tình trầm ổn, rừng trúc trước sân, khóm hải đường ở hậu viện, con chim anh vũ dưới mái hiên, giá đu dưới tán cây… Lúc tỉnh lại thì vỏ gối ướt đẫm.

Để chống lại cảm xúc bi thương này, Thẩm Thiều Quang bày thêm thú vui.

Nếu đã không chết thì phải sống cho thật tốt.

Cứ giày vò dằn vặt cái gì? Giày vò dằn vặt nồi lẩu ấy!

Người sành ăn Viên Mai từng nói “cai lẩu”, cho rằng cho dù thành phần nguyên liệu là gì thì món lẩu vẫn cứ thiếu sang, vẫn tỏa ra thứ mùi “tra tấn linh hồn”. Mặc dù trước giờ Thẩm Thiều Quang vẫn luôn coi ghi chép của Viên Mai như một loại tài liệu nghiên cứu tiêu chuẩn nhưng nàng lại không hề đồng ý với điều này. Mùa đông mà không có lẩu mới là thiếu vị ấy.

Lần lượt cho thịt trâu thái mỏng, thịt dê thái mỏng, thịt gà thái mỏng, thịt lợn thái mỏng, thịt cá thái mỏng, tôm viên, cá viên, thịt viên các loại cùng với các thứ rau như nấm, măng, cải trắng, cải dầu, thêm một số chế phẩm từ đậu phụ vào trong nồi lẩu theo sở thích cá nhân, chấm với hỗn hợp từ tương dầu, nước sốt tương vừng, chao và nước sốt hải sản các loại, ăn xì xà xì xụp…

Đã ăn là không tài nào dừng lại được!

Vẻ đẹp của lẩu chính là ở cái không khí ồn ào náo nhiệt lúc người ta thưởng thức, cho nên người luôn chú trọng sự tinh xảo đẹp đẽ như Viên Tử không cách nào tiếp nhận được.

Món lẩu này thì triều nào cũng có. Mùa đông ở trong cung sẽ bày ra một cái vạc nhỏ, cho nguyên liệu vào, vừa nấu vừa ăn.

Cái khác là ở chỗ mỗi lần chỉ nấu một loại, hoặc thịt trâu, thịt dê, hoặc cá, thịt nai, thỉnh thoảng cũng có mấy thứ dân dã, nhưng không trộn lẫn đủ loại như ở thời hiện đại; nước lẩu thì thường là nước hầm xương, không có đủ loại nước dùng thần kỳ với ớt như thời hiện đại; nước chấm cũng không giống thời hiện đại, phần lớn là nước tương trong vắt thêm dầu vừng, có đôi lúc còn thêm một chút giấm chua.

Thẩm Thiều Quang cảm thấy mình nên để cho người dân thời Đại Đường – những con người thích náo nhiệt – được nếm thử món lẩu thời hiện đại.

Bước đầu tiên là phải đi đặt làm mấy cái nồi.

Thẩm Thiều Quang vẽ lại hình dạng của nồi lẩu thời hiện đại, thuê thợ thủ công chế tác, làm rất nhanh, chất lượng cũng khá, có đôi chỗ có thể nhìn ra dấu vết thủ công, nồi nào cũng nặng trịch, bền chắc vững vàng như thể có thể dùng tới tận lúc tận thế – cho nên cũng rất đắt! Ở thời đại tiền vàng như hiện giờ, làm mười cái nồi lẩu đã khiến Thẩm Thiều Quang đau đứt ruột.

Bước thứ hai là quảng cáo, tổ chức ngày hội ẩm thực lẩu được không nhỉ? Vẽ một bức tranh lẩu, viết mấy chữ “Lư đồng đỏ lửa, trăm vị cùng nồi”, hoặc là lợi dụng tiết Tiểu Tuyết, viết mấy dòng quảng cáo đậm tính văn nghệ kiểu “Vãn lai thiên dục tuyết, năng ẩm nhất bôi vô”? Thẩm Thiều Quang nghĩ đi nghĩ lại, cuối cùng chọn cái trước. Không thể không nói, văn nghệ là một thứ kỹ thuật đòi hỏi trình độ cao, với tài thơ ca đậm mùi dầu mỡ như nàng thì vẫn nên đừng tự làm mình xấu mặt thì hơn.

Đương nhiên thứ quan trọng nhất đối với một ngày hội ẩm thực là kết hợp với giảm giá, ở thời hiện đại, các loại “lễ tết” đều đồng nghĩa với giảm giá và tiêu tiền.

Vu Tam không hề lạ lẫm gì với kiểu vừa nấu vừa ăn thế này – cho nên có thể thấy chủ trước của hắn thật sự đúng là một kẻ sành ăn. Vu Tam cũng hài lòng đón nhận kiểu hình dáng nồi như thế này, nhất là sau khi Thẩm Thiều Quang biểu diễn cho hắn xem sự thần kỳ của việc quay mở nắp thì hắn lại càng gật đầu tán thưởng.

Hiếm khi thấy vị “tiểu công cử” kiêu ngạo này tán thưởng như vậy, Thẩm Thiều Quang càng đắc ý giải thích cho hắn nghe về hình dạng của đường thông dưới đáy, về quan hệ giữa độ lửa và tốc độ không khí lưu thông.

* “Tiểu công cử” là từ lóng trên mạng, chỉ những người đàn ông mang trái tim nữ tính.

Đáng tiếc “tiểu công cử” lại không đồng ý với cái kiểu ăn “trăm vị cùng nồi” cái gì cũng ném hết vào trong nồi của Thẩm Thiều Quang: “Vậy chẳng phải là mùi vị lẫn lộn hết sao?”

“Cái cần chính là mùi vị lẫn lộn đấy!”

Vu Tam bị Thẩm Thiều Quang nói cho nghẹn họng không thốt được tiếng nào.

A Viên ở bên cạnh thì hớn ha hớn hở, mặc dù còn chưa được nếm thử nhưng đã quyết định thích cái món tên là lẩu này rồi.

Tìm một bữa rảnh, Thẩm Thiều Quang cho A Viên và Vu Tam ăn thử trước một bữa.

Vu Tam vô cùng miễn cưỡng, dưới sự uy hiếp của Thẩm Thiều Quang, chỉ đành không thể không ăn.

Nhưng sau đó, Vu Tam từ chỗ bị ép buộc biến thành tùy ý dửng dưng, nếu bàn về số lượng ăn thì Thẩm Thiều Quang cảm thấy có thể tính là hưởng thụ, đương nhiên là “công chúa” Vu Tam sẽ không thừa nhận điều này.

A Viên thì chả lo nghĩ nhiều như vậy, chỉ lo mỗi việc phồng mồm lên ăn – sao mà thứ này hợp khẩu vị mình thế chứ! Cô nương thật là giỏi quá đi!

Người chung ý tưởng với A Viên không ít, đương nhiên cũng có người về phe Vu Tam, lúc mới bắt đầu thì chỉ chọn một loại thịt cho vào nồi như kiểu truyền thống, nước tương cũng chỉ chọn loại nước tương trong vắt truyền thống, nhưng mà bàn bên cạnh bày đủ màu đủ sắc, ăn uống khí thế như vậy, hay là cũng thử xem sao?

Kết quả thử một lần rồi chẳng thể nào ngừng lại được.

Thẩm Thiều Quang chuẩn bị chừng bảy, tám loại nước tương, nước tương trong thêm dầu vừng, tương vừng, nước tương trong thêm dầu hoa tiêu, giấm gạo, tương trong, dầu vừng, còn có cả hành lá, mắm tôm, tỏi giã, bột hồ tiêu các loại để khách tự thêm. Gia vị thì cho vào lọ nhỏ trên bàn nguyên liệu, khách cần thì tự tới lấy.

Có thể là vì số lượng khách, cũng có thể là vì hơi nóng bốc lên từ nồi lẩu, quán rượu dường như trở nên náo nhiệt gấp đôi ngày thường.

Lúc Lâm Yến bước vào, nhìn thấy cảnh tượng ầm ĩ nhốn nháo như vậy thì không khỏi nhíu mày, đưa mắt nhìn quanh thì thấy Thẩm cô nương đang giúp khách bỏ thêm một ống gì đó vào một cái nồi hình dáng kỳ lạ, nàng mặc một cái áo người Hồ màu đỏ tươi còn mới tinh, mặt mày tươi rói, còn mang theo chút ý cười, hoàn toàn không có chút dáng vẻ nào của người dưới đèn tối hôm đó.

Thấy hắn, Thẩm Thiều Quang đi tới chào: “Mời Lâm công tử ngồi bên này.”

Lâm Yến gật đầu, cùng nàng đi tới một bàn trong góc – cách xa mấy bàn ầm ĩ nhốn nháo kia một khoảng, nàng vẫn cứ giỏi đoán ý người khác như vậy.

Đáng tiếc câu tiếp theo lại chẳng hề giỏi đoán ý người khác chút nào: “Trong quán mới có thêm món lẩu, bất cứ loại thịt nào cũng có thể cho vào nồi lẩu ăn cùng nhau, công tử có muốn thử một chút không?” Thẩm Thiều Quang chỉ vào đống đĩa rải đầy bàn bên kia, cười nói.

“… Cũng được.”

Thẩm Thiều Quang cười híp mắt, đưa thực đơn lẩu tới: “Công tử chọn đi. Hôm nay có cá chép tươi, có thể thái thành lát, thịt dê cũng rất tươi, còn có thịt viên mới vắt, chỉ là lúc ăn phải cẩn thận không để bẩn y phục…”

Nghe Thẩm cô nương hào hứng giới thiệu món ăn xong, Lâm Yến lạnh nhạt nói: “Nồi lẩu chỉ cần cá chép là được. Thêm một đĩa rau cải trộn giấm, đậu phụ rán và canh thịt viên như trước kia.”

“…” Phán đoán trước đó không sai chút nào mà, quả thật là vị Lâm thiếu doãn này chả thú vị gì cả!

Nhưng nàng vẫn cười hỏi: “Có cần một bát rượu không? Hoặc là thêm món gì đó? Ngọc tiêm diện có bốn loại, thuần thịt lợn, thịt lợn trộn tôm, thịt lợn trộn rau dền muối chua, thịt lợn trộn rau cải.”

Rau dền muối chua đã muối từ mùa xuân, mấy hôm nay mới mở bình. Mùa xuân thì ở ngoại thành chỗ nào cũng có rau dền, kể cả ở trong thành cũng chẳng đáng mấy đồng, đến mùa đông như bây giờ lại thành một thứ hay ho khó tìm, vì vậy nên được đón nhận rất nhiệt liệt. Thẩm Thiều Quang nghĩ bụng, chờ đến mùa xuân sang năm phải muối nhiều hơn nữa mới được.

Nghe nàng nói đến “rau dền muối chua”, Lâm Yến đột nhiên nhớ đến “A Tề ba tuổi”, “A Tề năm tuổi” trên cây cột.

33 rau dền.jpg

* Chữ “Tề” trong tên A Tề chỉ một loại rau dền mọc dại thuộc họ Cải (tên khoa học: Capsella bursa-pastoris).

“Hay là thêm một ít bánh canh gà?”

Lâm Yến hơi mất tự nhiên khẽ ho một tiếng: “Một ít bánh canh gà đi.”

Thẩm Thiều Quang còn chưa biết tên cúng cơm của mình đã bị người ta biết, trong bụng nàng còn đang nghĩ, xem ra tình cảm của Lâm thiếu doãn dành cho bánh canh gà đúng là chân ái.

32 tiểu tuyết

 

Đăng trong Tiệm cơm nhỏ thành Trường An - Bánh Anh Đào

Tiệm cơm – Chương 31

Chương 31: Chân giò muối và soái ca

Qua Tết Trùng Cửu, vợ chồng Quách đại lang và Lý nương tử cũng đã xử lý xong xuôi số hàng tồn, bắt đầu thu thập hành lý, chuẩn bị về quê.

Thẩm Thiều Quang tặng bọn họ một hộp bánh hoa to: “Nếu trên đường có để lỡ nhà trọ hay quán ăn thì có thể ăn tạm lót bụng.”

Lý nương tử nhìn hộp bánh to đầy các loại bánh hoa đẹp mắt thì cười nói: “Ta lại thật không nỡ ăn lót bụng trên đường. Cầm về nhà, để cho mọi người cũng được nhìn, được nếm thử đồ trong kinh. Ở quê không có mấy thứ này.” Dù sao cũng đã ở thành Trường An này nhiều năm, lúc chưa về thì cả ngày ngóng trông ngày về, giờ phải về thật thì lại luyến tiếc nơi này.

“Cũng đâu có xa, bao giờ muốn quay lại thăm thú thì quay lại là được.” Nói thế nào thì Thẩm Thiều Quang vẫn luôn mang một chút hơi thở toàn cầu hóa thời hiện đại.

Lý nương tử biết là nàng đang an ủi, hơi không nỡ, níu tay nàng: “Mấu chốt nhất là không thể có một vị hàng xóm tốt như cô nương nữa.”

Thẩm Thiều Quang cười nói: “Nhưng mà lại có con gái con dâu phụng dưỡng bên cạnh mà. Cả nhà vui vẻ bên nhau, thật là tốt.”

Nghe nàng nói vậy, Lý nương tử cười gật đầu: “Còn chẳng phải là vì điều này mới về sao?”

Tiễn người thuê cũ đi rồi, Thẩm Thiều Quang liền gọi thợ xây và thợ mộc tới, bắt đầu sửa sang tiệm ăn mới. Trước đó, Thẩm Thiều Quang cũng đã bàn chuyện phá tường với chủ nhà cũ, cũng gia hạn thời gian thuê thêm hai năm.

Bây giờ thu nhập trong tiệm cao lại ổn định, cho dù đã giao tiền thuê nhà, lại sửa sang trong quán thì chuyện tiền bạc cũng không gặp phải khó khăn gì.

Sửa sang quán không phải lo bớt cái này tiết kiệm cái kia, không phải tiếc tiền, đã có tiệm cũ làm cơ sở, bây giờ hai bên thông với nhau cũng phải trang trí cho đồng bộ mới ổn, cho nên cũng không phải nghĩ ngợi tìm phong cách mới, thành ra việc sửa sang trùng tu lại rất đơn giản.

Tường quét vôi trắng xóa, bên trên lắp bàn gỗ, đặt mấy chậu hoa xanh cùng mấy món đồ lặt vặt mới mua được ở Tây Thị, nào là tượng đất người Hồ, ngựa Hồ, chim chóc được bện từ cỏ, các loại nhạc khí từ sừng trâu, sau lại treo thêm hai bức tranh, thế là đủ rồi.

Mấy cái bàn ăn bằng gỗ hình dáng đồng bộ, bây giờ trong tiệm rộng, tiệm mới không cần lắp đặt kiểu quầy bar “diện bích” nữa, tiệm cũ thì vẫn giữ nguyên phong cách cũ – có lẽ có đôi người ngồi uống một mình lại thích kiểu này thì sao?

Trên mặt đất thì trải thảm kiểu Hồ – thực ra trong tiệm cũ vốn trải chiếu trúc, nhưng dùng rồi mới phát hiện, chưa được mấy ngày đã có que trúc bị đá rời ra, nếu đâm vào chân khách thì phiền to, hơn nữa chiếu trúc cũng khó lau dọn, Thẩm Thiều Quang dứt khoát trải thảm kiểu Hồ gần hết tiệm, bây giờ cũng đổi đồng bộ luôn.

Thảm kiểu Hồ có thể dùng đủ loại lông lạc đà, lông bò, lông dê bện lại với nhau, giữa một khoảng màu nâu sẫm lẫn vào một chút màu trắng, hoa văn hình thoi rất to, có đôi nét giống với vải nỉ thời hiện đại, đương nhiên là thô hơn nhiều.

Nói là đồ dị vực thế thôi chứ thực ra cũng không đắt lắm, không thể nào so được với thảm đỏ Tuyên Thành nổi tiếng khắp chốn, thậm chí còn chẳng bằng tơ tằm trong thành Trường An này, nhưng trải trong quán rượu nhỏ thì cũng có thể xem là đẹp mắt, huống hồ màu sắc cũng rất hợp với phong cách chỉnh thể trong quán.

Đương nhiên phòng bếp cũng được mở rộng ra, gọi thợ xây tới xây một bức tường mỏng, thợ mộc tới làm cửa gỗ, đối diện với đại sảnh thì chừa một ô cửa sổ để khách gọi món, cửa sổ mở ra bên ngoài thì không đụng đến.

Điều khiến Thẩm Thiều Quang vui mừng nhất là hậu viện phía sau cửa hàng mới thuê có một cái giếng nhỏ, thế này thì không cần phải ra ngoài lấy nước về nấu nữa, mùa hè lại có thể làm các loại đồ ăn “ướp lạnh”.

Việc sửa sang lại mấy gian nhà phía sau thì lại càng đơn giản hơn. Lý nương tử vốn cũng là người khá kĩ tính, nền nhà lát gạch, lại có giường và tủ của chủ nhà bày sẵn, Thẩm Thiều Quang chỉ việc quét lại tường, vá lại mấy viên gạch vỡ, chọn rèm thảm cho hợp, thế là đã có thể chuyển vào ở.

Thẩm Thiều Quang và A Viên dùng phòng ngủ lớn và gian giữa, căn phòng còn lại nhỏ hơn một chút hướng ra cửa viện, vừa khéo để cho Vu Tam.

Lúc dọn nhà, trụ trì dẫn mấy người Tịnh Thanh Tịnh Từ tiễn ra khỏi cửa am, Thẩm Thiều Quang cung cung kính kính hành lễ với trụ trì. Lúc vừa ra khỏi cung không có chỗ đặt chân, Viên Giác sư thái không chê nàng nghèo khó, không chỉ cho nàng ở lại mà còn đối đãi tận tình, Thẩm Thiều Quang vẫn nhớ rõ trong lòng.

Viên Giác sư thái mỉm cười hiền lành với nàng.

Thẩm Thiều Quang cười nói: “Bao giờ sư thái viết xong Bánh Ký thì nhất định phải để ta được đọc trước.”

Viên Giác sư thái và Tịnh Thanh đều bật cười, chỉ có Tịnh Từ là không vui. Trước kia cứ một lòng một dạ muốn xúi giục trụ trì đuổi nữ nhân nghèo này đi, bây giờ người ta tự mình đi, trong lòng Tịnh Từ lại sinh ra cảm giác khó chịu. Cũng giống như một anh chàng chán bạn gái rồi, muốn chia tay, nhưng khi bạn gái nói chia tay trước thì anh ta lại cảm thấy không cam lòng.

Chuyển tới rồi, lại quét dọn một hồi, sửa soạn, bày biện đồ đạc, chạy tới Tây Thị hai chuyến mua thêm mấy món đồ, bận bận bịu bịu như thế mất mấy ngày, tới khi trời hơi lạnh mới tính là xong xuôi.

Trước đó đã đóng cửa tiệm, Thẩm Thiều Quang rửa mặt xong, ngồi trong phòng đọc vài trang sách, lồng giày vào loẹt quẹt đi ra sân, chỉ vào mấy xâu thịt khô, chân giò và mấy món ăn dân dã treo dưới hiên nhà, nói với Vu Tam vừa đi rửa mặt vào: “Sao thịt này mãi không thấy đỏ cũng không thấy cứng lại?”

Vu Tam vào nhà cầm que tăm đi ra, đâm đâm một cái: “Cô nương đừng có đến ngắm suốt. Cô nương ngắm cho nó chẳng thay đổi chút nào cả.”

Không phải chứ… Cái này sao trách ta được?

Thẩm Thiều Quang lại đột nhiên nghĩ tới “hiệu ứng Zeno lượng tử”, “nếu như chúng ta liên tục quan sát một hạt bất ổn định thì trạng thái của hạt đó sẽ không thay đổi”, bởi vì “trong cơ học lượng tử, cái gọi là “quan sát” sẽ sinh ra một lượng vật lý theo cơ học cổ điển, quan sát với tần số cao sẽ làm chậm lại sự chuyển đổi của hệ”*.

* Giải thích về hiệu ứng Zeno lượng tử lấy nguồn từ Baidu. [tác giả]

Cho nên thật sự là vì ta cứ đến xem suốt nên thịt này mới ướp không thành?

Thấy Thẩm Thiều Quang coi là thật, lúc đầu Vu Tam hơi kinh ngạc, sau đó thì bật cười thành tiếng. Bình thường cứ bày ra bộ mặt dở sống dở chết, lúc nói chuyện cũng cứ như thể đang mỉa mai người ta, không ngờ rằng lúc cười lên mặt mũi lại sáng sủa như vậy.

Thẩm Thiều Quang biết mình bị hố thì cũng không giận, ngược lại còn cười nói với Vu Tam: “Nên cười nhiều một chút, cười lên rất dễ nhìn!”

Có lẽ Vu Tam hơi ngượng ngùng vì việc khống chế biểu cảm trên mặt của mình xảy ra chút lỗi, không để ý tới Thẩm Thiều Quang, quay đầu đi thẳng vào phòng mình.

Tự kỷ có chọn lọc và kiêu ngạo mà cũng có thể đi đôi với nhau sao? Thẩm Thiều Quang bĩu môi, bắt chước dáng vẻ buông mày rũ mắt của Vu Tam, lại tiếp tục nhìn đám thịt muối treo dưới hiên, tưởng tượng đám thịt này biến thành thịt muối sốt mật ong, chân giò vàng óng, chân giò muối xào măng…

31.jpg

Kỹ thuật hong gió này từ xa xưa đã có, ít nhất thì từ thời Khổng Tử đã thu mười chuỗi thịt khô làm học phí. Thời nhà Đường không ít người thích ăn cá muối thịt muối – có người nói tiên đế thích ăn ức hươu muối, nhưng thánh thượng hiện giờ không thích lắm, trong cung cũng vì thế mà hiếm khi làm, Thẩm Thiều Quang không học lỏm được chút nào.

May mà chủ cũ của Vu Tam là người phía nam, cũng may nữa là một người sành ăn, cho nên mặc dù Vu Tam không giỏi ướp thịt lợn cho lắm, nhưng mấy thứ đồ dân dã thì lại rất rành.

Trình độ thực hành của Thẩm Thiều Quang thì không có gì cao siêu, nhưng kiến thức lý luận thì lại rất tốt. Nàng từng làm một chuyên đề nói về cách ướp chân giò muối, còn từng đích thân chạy tới vùng Giang Chiết phỏng vấn một vị sư phụ nổi tiếng về ướp chân giò.

Ướp chân giò muối là một quá trình cầu kỳ, chọn chân giò phải chọn cẩn thận, cả con lợn chỉ nặng tầm trên dưới 40 kg, không thể quá nhỏ, cũng không thể quá to, chân sau nặng khoảng bốn ký bốn ký rưỡi.

Lúc lấy chân giò phải xuống dao thật cẩn thận, hình dạng chân phải tròn, thực sự là “không tròn không ăn được”, cho nên sau đó mới có thêm khâu “chỉnh hình”.

Lúc ướp thì ướp từng lớp muối một, dùng muối gì để ướp rất quan trọng, cách xát muối cũng rất cầu kỳ hà khắc.

Trải qua mấy lần ướp muối, ước chừng khoảng một tháng sau thì lại tiến hành rửa sạch, phơi nắng, sau đó thì còn một loạt quy trình lên men, xếp lớp. Không chỉ có quy trình phức tạp nhiều bước mà bước nào cũng phải chú ý, thu đông năm nay bắt đầu ướp thì tới tận mùa hè năm sau mới xong, người nào chú trọng hơn nữa thì để hai năm, ba năm.

Nàng từng đọc được trong tác phẩm của Đường Lỗ Tôn tiên sinh viết rằng lúc ướp chân giò muối phải cho thêm một cái chân xiểng* thì mới ngon, Thẩm Thiều Quang từng hỏi vị sư phụ mà nàng phỏng vấn về chuyện này – điều này hơi có phần duy tâm, nhưng mấy chuyện dân dã thế này xuất hiện trong bài báo thì sẽ thú vị hơn một bài viết đơn thuần giới thiệu quy trình chế biến.

* Người ta kể rằng dùng chân chó để làm chân giò muối sẽ có mùi vị ngon hơn chân lợn, nhưng nếu nói chân chó thì lại không được lịch sự nên sửa thành chân xiểng (chữ “xiểng” và chữ “tuất” trong tiếng Trung cùng cách viết nhưng cách đọc khác nhau).

** Đường Lỗ Tôn là một nhà văn nổi tiếng với thể loại tạp văn, viết nhiều về lịch sử và phong tục văn hóa dân gian, ông là tác giả của cuốn “Cái ăn Trung Quốc”.

Không biết có phải thủ tục này đã thất truyền rồi hay không mà vị sư phụ trẻ tuổi mặc đồ bảo hộ chống vi khuẩn y như bác sĩ ngoại khoa kia vô cùng kiên định lắc đầu với Thẩm Thiều Quang. Thẩm Thiều Quang cảm thấy thật đáng tiếc khi không thể tăng thêm một chút “chân chó” vào bài báo của mình.

Thực ra lúc đầu Thẩm Thiều Quang cũng không có nhiều hảo cảm với món chân giò muối này như vậy. Nàng là người phương bắc, trong nhà cũng không làm mấy món ướp như thế này.

Lúc nàng còn bé từng có một người bạn của cha nàng ở miền nam tặng cho một cái chân giò muối Kim Hoa cũng không biết có phải là chính tông hay không. Thịt chân giò kia chưng cách thủy lên thì béo ngậy, mặn điếc, lại có một thứ mùi kỳ lạ, Thẩm Thiều Quang chỉ ăn một miếng đã không tài nào ăn tiếp được nữa. Về sau nàng mới biết, có lẽ là do mẹ nàng không xử lý tốt mặt thịt hoặc là không gạn bớt dầu.

Được thưởng thức các loại thịt chân giò muối một cách tiêu chuẩn là sau khi đi làm. Các loại thịt chân giò muối, cho dù là món chính hay là món phụ thì đều khiến Thẩm Thiều Quang nghiện tới nỗi muốn nuốt luôn cả lưỡi.

So với thịt tươi thì chân giò muối có một thứ hương thơm từ quá trình lên men lâu dài, giống như lúc so sánh giữa các ông chú già dặn với mấy anh chàng tiểu soái ca vậy, khuôn mặt từng trải không lộ rõ cảm xúc, đến cả mỗi một nếp nhăn cũng mang theo sự hấp dẫn được mài giũa qua tháng năm, so ra thì đám trẻ tuổi đúng thật là quá non, thiếu một chút “linh hồn”.

Kiếp trước, cả trong lẫn ngoài vòng giải trí có mấy “ông chú” mà Thẩm Thiều Quang khá là đánh giá cao, Thẩm Thiều Quang nhìn vầng trăng lưỡi liềm treo giữa trời, thương cảm nghĩ, bọn họ cũng không biết ở một thời không khác có một “fan bà xã” là nàng đây.

Sau khi xuyên qua, Thẩm Thiều Quang cũng từng gặp vài nam nhân có tướng mạo khá đẹp mắt, đặt vào thời đại này thì cũng coi là được, lại có thêm thân phận làm nền, nói năng lễ độ, mặc dù hơi nịnh nọt nhưng cũng không thái quá; ngoài ra còn có mấy vị đại vương cũng có diện mạo khá được.

Lý thị vốn là sĩ tộc vùng Lũng Tây, vốn dĩ đã có quyền ưu tiên trong việc chọn vợ gả chồng, sau lại có được thiên hạ, trong hậu cung cũng đều là mỹ nhân, gen tốt cứ thế mà được truyền từ đời này sang đời khác, có muốn xấu cũng khó.

Nói đến tướng mạo của giới sĩ tộc, Thẩm Thiều Quang không khỏi nhớ đến Lâm thiếu doãn mặt mày nhăn nhó trong phường mình, chắc hẳn cũng là kết quả tích lũy gen tốt suốt mấy đời. Mặt mày như vậy đúng là có nét như trong thơ trong tranh, khí chất cũng tốt, đẹp mà không ẻo, uy mà không dữ, lại có nét tao nhã lịch sự của người có ăn học, còn có vẻ uy nghi của quyền thần, chậc chậc… Tiếc là nét mặt hơi đơ!

Thực ra thì vị bằng hữu kia của Lâm thiếu doãn cũng không tệ, tướng mạo phong lưu, đặc biệt là đôi mắt rất hút hồn, nhưng cứ gặp hắn là Thẩm Thiều Quang lại nhớ tới “Thập niên nhất giác Dương Châu mộng, doanh đắc thanh lâu bạc hãnh danh*”.

* Trích “Khiển hoài” (Giải nỗi nhớ) của Đỗ Mục, nghĩa là: Mười năm chợt tỉnh một giấc mộng Dương Châu, lại được mang lấy tiếng bạc tình ở chốn thanh lâu.

Nhìn mấy xâu thịt muối, Thẩm Thiều Quang điểm lại một lượt mấy soái ca mà mình biết, bùi ngùi thở dài, chờ tới lúc thịt ướp được rồi thì phải chưng lên với rượu vàng và đường ăn một bát mới được.

 

Đăng trong Tiệm cơm nhỏ thành Trường An - Bánh Anh Đào

Tiệm cơm – Chương 30

Chương 30: Nhà kinh tế học Thẩm Thiều Quang

Tay nghề nấu cá của đầu bếp mới Vu Tam khiến Thẩm Thiều Quang vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ, mấy hôm sau đó hắn lần lượt làm mấy món cá sốt chua ngọt, cá hấp, canh cá nấu thịt dê.

30.1.jpg

Thực khách rất ủng hộ các món ăn từ cá thế này, đặc biệt món canh cá nấu thịt dê là được đón nhận nồng nhiệt nhất.

Làm món này hơi phức tạp, thịt dê phải được chụng nước nóng trước, sau đó ninh lên, lại cho vào bụng cá rồi nấu chín, vô cùng tinh xảo phức tạp, Thẩm Thiều Quang dứt khoát định giá cao nhất.

Thời đại này có những món phức tạp và tỉ mỉ đến mức Thẩm Thiều Quang cũng chả hiểu nổi, ví dụ như món “dê nhồi nguyên con”. Người ta phải cẩn thận chọn con ngỗng non, trong bụng ngỗng nhồi thịt và gạo nếp, cho thêm các loại gia vị, sau đó đặt cả con ngỗng vào trong bụng con dê, dùng lửa lớn để nướng dê, đến khi dê chín rồi thì không ăn dê mà lại chỉ ăn ngỗng…

Rồi còn lợn nướng, nhồi táo vào trong bụng con lợn, dùng cỏ lau quấn quanh bên ngoài rồi đắp bùn lên, bỏ vào lửa nướng, nướng xong bóc ra từng lớp bùn, cỏ, đương nhiên lông lợn cũng bị bóc ra theo, lộ ra lớp thịt non mềm – món này được người hiện đại gọi là khiếu hoa kê. Nhưng đây là cách ăn của đám nhà giàu thôi, vẫn còn kém xa khiếu hoa kê của đám người sành ăn – thịt còn phải được chụng qua dầu, sau đó chưng cách thủy ba ngày ba đêm, sau đó lại thêm gia vị*…

* Một trong tám loại thức ăn quý được nhắc đến trong “Chu Lễ”. [tác giả]

Ngự thiện phòng trong cung có tới mấy món kiểu thế này, Thẩm Thiều Quang xếp chung tất cả vào nhóm “thứ ta ăn không phải cơm mà là phiền phức”. Đoán chừng mấy món kiểu thế này là do thiên hạ thái bình đã lâu, đám nhà giàu không có chuyện gì làm, bày trò linh tinh mà ra, giống như mấy đường viền rườm rà trên sườn xám thời nhà Thanh vậy.

Nhưng món canh cá nấu thịt dê của quán mình thì Thẩm Thiều Quang vẫn phải tán thưởng – thịt dê được nấu trước là bởi vì nó lâu mềm, nấu đến khi chín khoảng tám phần thì bỏ vào trong bụng cá, cá (鱼) và dê (羊) bổ sung cho nhau, hợp thành một chữ “tiên” (鲜).

Nhưng có lẽ là vì người thời này không thích ăn thịt lợn nên Vu Tam không thành thạo mấy món từ thịt lợn cho lắm.

Trên thực tế, Vu Tam cũng rất kinh ngạc trước mấy món “thịt mã não”, “sư tử đầu” của Thẩm Thiều Quang, không ngờ lại có người nấu thịt lợn ra được mùi vị như vậy…

Lúc nói về giá trị dinh dưỡng của thịt lợn thì Thẩm Thiều Quang đang dẫn Vu Tam và A Viên đi chơi thu.

Tết Trùng Cửu đi leo núi chơi thu là tập tục từ bao đời, Thẩm Thiều Quang lại nhân dịp này mà bán một đợt bánh trùng dương, nhưng mà bán trước đó một ngày, tới hôm Trùng Dương thì tất cả mọi người đều cưỡi ngựa ngồi xe ra ngoài du ngoạn từ sáng sớm.

* Tết Trùng Cửu hay Tết Trùng Dương vào ngày 9 tháng 9 âm lịch, theo tục cũ người ta đều không ở nhà mà đưa nhau lên chỗ cao (đăng cao).

Lúc đầu Thẩm Thiều Quang còn tính toán xem có nên tìm một thắng địa du ngoạn nào đó mà bày sạp bán hàng hay không, nhưng mùa này chỗ du ngoạn của người ta không tập trung vào chỗ nào nhất định, người muốn bớt việc thì chọn đi Du Nguyên, người không ngại phiền toái thì chọn núi Chung Nam, cũng có kẻ văn nhân nhã sĩ chọn mấy đoạn sông như Khúc Giang Đình, Lâm Vị Đình mà ngâm thơ làm phú, rồi còn cả các chùa các miếu trong ngoài thành cũng đều là chỗ du ngoạn mùa này cả.

Dòng người không tập trung, mà đăng cao là một quá trình vận động, có thể có được bao nhiêu người dừng xe xuống ngựa mua đồ ăn?

Đánh giá tổng quát như vậy, Thẩm Thiều Quang dẹp ý định này, dẫn A Viên và Vu Tam đi ra ngoài giải sầu, coi như là ngày nghỉ.

Thẩm Thiều Quang lười, lúc không muốn kiếm tiền thì cũng không muốn đâm đầu vào mấy chỗ đông người, cân nhắc so sánh giữa Du Nguyên và Khúc Giang, nàng chọn cái sau – Thẩm Thiều Quang nghĩ, có lẽ là trái ngược với “nhân từ”, nàng nghiêng về phía “thông thái” nhiều hơn.

Lần này quả thật là Thẩm Thiều Quang rất sáng suốt, người Trường An một năm ba trăm sáu mươi lăm ngày phá hoại Khúc Giang, thế nhưng hôm nay lại chẳng mấy người đến đây, dù sao thì Trùng Dương người ta vẫn ưu tiên chọn “đăng cao” hơn.

Cuối thu bầu trời cao trong vắt, nước Khúc Giang xanh biếc, trên mặt sông chỉ có vài ba chiếc du thuyền, thỉnh thoảng có vị lang quân cưỡi ngựa dẫn nô bộc từ trên đường lớn đi tới, Thẩm Thiều Quang đoán là bên kia Khúc Giang Đình có yến hội.

Có thì cũng không liên quan gì đến mình, “nhà thông thái” Thẩm Thiều Quang dẫn nô bộc của mình đi dọc theo hướng ngược lại Khúc Giang Đình một hồi, thấy một chỗ phong cảnh không tệ thì liền trải chăn ra, lấy ấm sữa bò đã chuẩn bị sẵn ra, mở hộp đựng bánh hạt khô, bánh đậu, ngải oa oa, bánh hoa cúc ra, lại lấy ra túi giấy đựng bánh nhân thịt.

30.2.jpg

A Viên hoan hô một tiếng, rõ ràng là cảm thấy hứng thú với các loại bánh mặn có vị thịt hơn hẳn các loại bánh ngọt.

Nhìn đám thịt bên eo A Viên, cuối cùng Thẩm Thiều Quang cũng không nói gì – ăn tết không nên làm mất hứng trẻ con.

Nhân bánh này là thịt để làm sư tử đầu, mặc dù đã hơi nguội nhưng vẫn thơm lừng.

Dạo này, tay nghề chế biến các món từ thịt lợn của Thẩm Thiều Quang càng lúc càng xuất sắc, có thể biến những thứ tầm thường trở nên thần kỳ.

A Viên gặm một cái, nịnh nọt: “Đồ ăn cô nương làm thật là thơm!” Còn nói thêm: “Không có món nào ngon bằng thịt lợn do cô nương làm.”

Đối với các món ăn tinh xảo hấp dẫn từ thịt lợn ở trong quán, lúc đầu Vu Tam hơi ngạc nhiên, qua mấy ngày cũng đã có thể làm quen tay.

Nghe thấy A Viên nói vậy, Vu Tam chậm rãi thọt một dao: “Phải rồi, nếu không thì sao có thể lấy rẻ làm đắt thế chứ?” Một đĩa bốn viên sư tử đầu có giá xấp xỉ một đĩa thịt dê, nhưng giá thịt lợn thế nào, giá thịt dê thế nào?

A Viên khó chịu nhất là thái độ quái gở của Vu Tam: “Sao ngươi lại nói thế chứ!”

Thẩm Thiều Quang cảm thấy mặc dù lời Vu Tam nói đúng là sự thật, nhưng vẫn phải lột lớp vỏ bên ngoài để nhìn vào bản chất bên trong.

Nàng giơ tay lên ngăn lại A Viên, bắt đầu tiến hành khóa huấn luyện kinh tế cho đầu bếp nhà mình: “Cái “rẻ” mà ngươi nói là chỉ chi phí nguyên liệu, không bao gồm chi phí nhân lực, chi phí thời gian, chi phí trí tuệ.”

“Mặc dù một miếng thịt lợn rất rẻ, nhưng chúng ta nào chần, nào xào, nào ninh, rồi còn chưng, lại bỏ thêm gia vị, bày biện đẹp đẽ…” Thẩm Thiều Quang dừng một chút: “Đương nhiên hiện giờ còn chưa có khoản bày biện đẹp đẽ, nhưng mà sau này sẽ có. Trải qua cả một quá trình như vậy, miếng thịt lợn này không còn là miếng thịt lợn trước đó nữa…”

A Viên và Vu Tam đều trợn tròn mắt nhìn nàng.

“Nó là thịt lợn đặt lên bàn tiệc, là thịt lợn vào trong miệng quý nhân!”

Vu Tam: “…”

Suy nghĩ một chút, A Viên gật mạnh đầu.

Thẩm Thiều Quang nói một lúc, bắt đầu đưa ra “dẫn chứng phong phú”: “Ví dụ như ở phía nam có một số người gọi là “mẹ nuôi”, mua các nữ hài nhà nghèo, dạy bọn họ đủ các tài nghệ cầm kỳ thư họa, thổi sáo đánh đàn, chờ đến tuổi thì bán vào phủ đệ của các quý nhân trong kinh, hoặc là vào lầu xanh, hoặc là bán cho các tay buôn lớn ở vùng Lưỡng Hoài.” Không biết thời này đã có kiểu buôn bán này chưa, cái Thẩm Thiều Quang đang nói là “Dương Châu sấu mã” ở thời sau.

“Những nữ hài kia lúc mua chẳng qua chỉ vài lạng bạc, nhưng lúc bán ra có thể thu được tới một ngàn tám trăm lạng.”

A Viên hít vào một hơi, tính tính xem một ngàn tám trăm lạng có thể mua được bao nhiêu nàng ta.

Vu Tam nhìn chủ nhân mới của mình, cảm thấy có phần một lời khó nói hết.

“Là nhờ đâu chứ? Là vì ở giữa có chi phí giáo dục của “mẹ nuôi” đó! Cũng giống như thịt lợn của chúng ta…”

Đột nhiên nghe thấy rừng cây phía sau có tiếng động, Thẩm Thiều Quang quay đầu lại, A Viên và Vu Tam cũng ngoảnh đầu nhìn, là một lang quân mặc áo dài cổ tròn màu xanh sẫm cùng một lang quân mặc áo dài màu xanh lơ, người mặc áo dài màu xanh lơ đang cười tới run cả người.

Không phải là Lâm thiếu doãn và vị bằng hữu kia của hắn thì còn ai vào đây nữa?

Trong lòng Thẩm Thiều Quang hừ một tiếng, nghe lén người ta nói chuyện mà còn khoa trương như vậy! Nàng lại suy đoán xem hai người này là từ đâu tới, đoán chừng là trốn ra từ yến tiệc bên kia Khúc Giang Đình, đi theo rừng cây vòng tới bên này. Thế này mà cũng có thể đụng phải nhau, là nghiệt duyên sao?

Trong bụng đã mắng đậu má nhưng ngoài mặt vẫn rất hiền hòa, Thẩm Thiều Quang cúi đầu hành lễ với hai người, cười chào hỏi: “Chào hai vị lang quân.”

Lâm Yến khẽ mím môi gật đầu đáp lại, Bùi Phỉ thì cười đáp: “Lại gặp được cô nương rồi.”

Thẩm Thiều Quang mỉm cười.

“Lần trước được ăn bánh thẻ trung thu của cô nương làm, rất ngon!” Nếu không có phần “mẹ nuôi” phía sau thì Bùi Phỉ còn có thể mượn lời nói lúc nãy của Thẩm Thiều Quang để chọc ghẹo, nhưng nàng đã đưa ra “dẫn chứng phong phú” như vậy, nếu hắn nhắc lại thì không khỏi cợt nhả thấp kém, vì vậy chỉ có thể nói chuyện bánh trung thu lần trước – sau hôm đó Bùi Phỉ có hỏi Chu quản gia, biết là bánh kia do Thẩm cô nương này làm.

Xuyên qua tới thời Đại Đường, Thẩm Thiều Quang hành sự theo chuẩn tắc thục nữ, da mặt đã mỏng đi không ít, chuyện bậy bạ vừa rồi bị hai người này nghe được, nàng vốn hơi ngượng ngùng, nhưng đối diện với người tên Bùi Phỉ có vẻ cũng hơi xấu xa này, chút ngượng ngùng đó cũng mất sạch, nàng lập tức cười đáp: “Chắc hẳn vận may của lang quân rất được, rút được thẻ tốt.”

“Ha ha ha, đó là đương nhiên rồi, đương nhiên rồi.” Bùi Phỉ cười nói.

Thẩm Thiều Quang tiếp tục mỉm cười, đám thẻ kia làm gì có cái nào không tốt… Quả nhiên thích nghe lời hay là bản tính chung của loài người! Nếu không phải ta có tài nấu nướng kinh người thì chỉ dựa vào bản lĩnh này thôi, làm nữ quan hoặc ni cô, bày cửa hàng rút thăm đoán thẻ ở trong chùa cũng đủ sống. Đúng là tài nghệ kéo chân nửa vị tiên!

“Ta cảm thấy thẻ của cô nương phán rất chuẩn, có thể so với Trần sư phụ trong chùa Thanh Long.” Bùi Phỉ lại lần nữa thần giao cách cảm với Thẩm Thiều Quang.

Có con mắt tinh tường đấy! Thật đúng là hiểu ý người khác! Thẩm Thiều Quang hơi cúi đầu xuống, rụt rè cười: “Lang quân nói đùa.”

Nghe hai người này ngươi tung ta hứng bậy bạ, nhớ lại lời nói khiến người ta phải kinh ngạc lúc nãy của Thẩm cô nương này, Lâm Yến lại lần nữa nhếch miệng: “Vậy bọn ta cũng không quấy rầy cô nương chơi thu nữa.” Sau đó khẽ gật đầu với Thẩm Thiều Quang, lại nhìn Bùi Phỉ, muốn cáo từ quay đi.

Bùi Phỉ đã gật đầu chào Thẩm Thiều Quang: “Cuối thu không khí mát mẻ, cô nương chơi thu vui vẻ.”

Thẩm Thiều Quang lại cúi người chào lại, cũng cười nói: “Hai vị lang quân chơi thu vui vẻ.”

A Viên và Vu Tam cũng hành lễ.

Bùi Phỉ đuổi theo Lâm Yến: “Chẳng lẽ ngươi cảm thấy thẻ bánh ngươi rút được không chuẩn sao? Ngươi cứ lạnh nhạt với các cô nương như vậy thì thẻ kia chuẩn sao được chứ…”

Gió thu phất phơ mang theo tiếng nói chuyện loáng thoáng, Thẩm Thiều Quang nhìn theo bóng lưng của hai người kia, cười tinh ranh, chẳng có lẽ, chẳng có lẽ vị Lâm thiếu doãn kia rút được thẻ “tất đắc giai phụ”?

Ha! Ha! Vậy thì cái thẻ kia của mình quá chuẩn rồi! Vị cháu gái nhà phó xạ kia, luận về tướng mạo, luận về tác phong đều có thể xưng là “giai”, mà mấu chốt nhất là hình như người ta cũng có ý với vị thiếu doãn này… Thật ra Bàng nhị nương cũng rất đáng yêu. Ha ha, cao phú soái, dù cái mặt có hơi đơ thì vẫn được cả tá con gái thích.

Đúng là một đám “mê mặt”… Thẩm Thiều Quang lắc đầu bất đắc dĩ.

 

 

 

 

 

 

Đăng trong Tiệm cơm nhỏ thành Trường An - Bánh Anh Đào

Tiệm cơm – Chương 29

Chương 29: Bước thứ hai của quán rượu

Ở Tây Thị có chợ nô lệ, Thẩm Thiều Quang dẫn A Viên tới đó dạo.

Thời này nuôi nô lệ rất phổ biến mà thuê người làm lại hiếm thấy, nếu như cần thêm sức lao động thì đều bỏ tiền mua hẳn tôi tớ.

Thẩm Thiều Quang phân tích, thứ nhất là bởi vì loại quan hệ này bền vững, tôi tớ chính là tài sản riêng của chủ nhân, không dám không nghe lời chủ nhân, thậm chí “tôi tớ phải đặt chủ nhân ở vị trí cao nhất”, ngoài các tội lớn như mưu phản thì tôi tớ còn không được tố cáo chủ nhân, nếu không sẽ bị phạt; hơn nữa tôi tớ còn rất rẻ, một nam tử thành niên có chút năng lực cũng chỉ có mấy lạng bạc.

Từ sau khi xuyên qua, Thẩm Thiều Quang đã hoàn toàn mất hết tiết tháo, trong chuyện tôi tớ nô bộc này, nàng dứt khoát nhập gia tùy tục.

Chợ nô lệ rất gần chợ ngựa, đi qua một đám la ngựa đủ màu đủ sắc, con thì ốm yếu hom hem con thì da lông bóng mượt, một lát sau đã tới chợ nô lệ.

Chợ nô lệ không hề nhỏ, bán đủ côn lôn nô, tân la tỳ trong truyền thuyết, còn độc quyền cả ca cơ vũ nữ xinh đẹp thướt tha, có người chỉ bán một vài tên, ba bốn tên, cũng có thương nhân vòng một vòng bán hẳn mười mấy tên tôi tớ.

* “Côn lôn nô” chỉ những người nô lệ da đen ở Đông Á, họ khỏe mạnh, sức lớn lại thật thà, ngay thẳng nên rất đắt đỏ, chỉ có những người có địa vị cao mới mua được. “Tân la tỳ” là những tỳ nữ được huấn luyện chuyên nghiệp, nghe lời và có rất nhiều tài khéo.

Thử hỏi thăm mấy người bán lẻ đều không thích hợp, cũng dễ hiểu thôi, nếu là đầu bếp xuất sắc thì chắc chắn chủ nhà chẳng bán làm gì.

Thẩm Thiều Quang đi tới trước mặt một thương nhân buôn nô lệ chừng hơn bốn mươi tuổi, hắn vòng một vòng hẳn hai, ba chục tên tôi tớ, đang còn đứng bán.

Hai người mua nô lệ như mua gia súc, nhìn mặt xem “chất lượng”, chẳng mấy chốc đã chọn ra ba, bốn tỳ nữ có chút nhan sắc, ngay sau đó lập tức có người dẫn tới nha môn viết khế ước mua bán.

Thấy Thẩm Thiều Quang đứng cạnh đó, thương nhân buôn nô lệ khách khí hỏi: “Cô nương có gì phân phó?”

“Ta muốn mua một nam bộc, tốt nhất là có chút tài nấu nướng.”

Xuất thân, tuổi tác, chủ cũ, tài nghệ của các nô lệ đều được thương nhân ghi lại, nhiều thương nhân buôn nô lệ hợp tác theo nhóm, người mua ban đầu với người bán sau cùng không phải cùng một người, cho nên việc ghi chép này rất cần thiết.

Mặc dù Thẩm Thiều Quang chỉ mua một tên nô bộc nhưng người thương nhân kia vẫn không hề lạnh nhạt với nàng, cười đáp: “Cô nương chờ một lát, đợi ta xem sổ đã.”

“Vừa khéo, tên Vu Tam này trước kia chính là đầu bếp.” Thương nhân buôn nô lệ chỉ vào nam tử đứng ở trên cùng, nói.

Thẩm Thiều Quang nhìn người được gọi là Vu Tam kia, hắn chừng hai mươi sáu, hai mươi bảy tuổi, vóc người cao, tướng mạo đoan chính, thậm chí có thể nói là khá tuấn tú, chỉ là hàng mày hơi chau, ánh mắt thờ ơ lạnh nhạt, trông có vẻ như lão tử chả thèm quan tâm, ai muốn làm sao thì làm.

Được, có cá tính lắm!

Thẩm Thiều Quang nhìn quanh, không biết là xuất phát từ phong độ đối với mỹ nữ hay là đạo đức nghề nghiệp mà thương nhân buôn nô lệ kia dẫn nàng đi tới chỗ đám nô lệ.

“Ngươi biết nấu nướng sao?” Thẩm Thiều Quang hỏi.

Vu Tam hơi ngước mắt lên nhìn Thẩm Thiều Quang: “Biết.”

“Giỏi nhất là làm món gì?”

Giọng Vu Tam thản nhiên: “Canh quỳ, canh lá đậu.”

29 1

Thương nhân buôn nô lệ giận tái mặt: “Trả lời cô nương cho đàng hoàng!” Canh quỳ là một món rất bình thường, canh lá đậu lại có thể coi là thô thiển, làm gì có đầu bếp nào nói rằng giỏi nhất là làm hai món này?

Có lẽ là xuất phát từ tâm lý hảo hán không màng thua thiệt trước mắt, Vu Tam vẫn trả lời: “Lúc chủ cũ vẫn còn tiền thì cũng đã từng làm mấy món như ngỗng nướng, dê nướng, cá chép thái lát.”

Thẩm Thiều Quang gật đầu: “Sao lại bị bán?”

“Chủ nhân nghèo, bán ta đổi lấy một bữa tiệc cá ở lầu Ngọc Liễu.”

Thẩm Thiều Quang: “…” Được rồi, cũng hơi hiểu tại sao vị huynh đệ này lại có cái vẻ mặt bất cần như vậy rồi, cũng hiểu tại sao chủ cũ của hắn lại nghèo – bán đầu bếp đổi bữa cơm, đây là vụ mua bán lỗ vốn cỡ nào cơ chứ!

Thương nhân buôn nô lệ lại cảm thấy chắc chắn là do tay nghề nấu nướng của hắn không tốt, hoặc là hắn đang nói bậy, trong lòng thầm oán đồng bọn mua trước đó không đáng tin, cười lấy lòng Thẩm Thiều Quang: “Nếu cô nương không vội thì ngày kia còn một đám nữa, tới lúc đó cô nương lại tới xem sao?”

Thẩm Thiều Quang cười nói với thương nhân buôn nô lệ: “Không cần, ta mua người này luôn. Bao nhiêu tiền?”

Tên nam bộc này nằm trong nhóm từ ba lạng bạc trở lên, bây giờ xem ra tài nấu nướng có chút vấn đề, lại thêm cái tính khí này nữa, thương nhân buôn nô lệ cũng lười giữ hắn lại để dạy dỗ, tự động hạ giá, chỉ đòi hai ngàn bảy trăm văn.

Thẩm Thiều Quang cảm thấy giá này hợp lý, liền cảm ơn người thương nhân buôn nô lệ kia, giao tiền xong, đi làm khế ước mua bán.

Thẩm Thiều Quang dẫn A Viên ngẩng đầu ưỡn ngực cùng Vu Tam rũ đầu ảo não đi về nhà.

Tây Thị cái gì cũng bán, trên đường về tiện thể mua cho Vu Tam chút đồ dùng hằng ngày.

Thấy nàng tiêu rất nhiều tiền để mua đồ cho Vu Tam, hắn lại vẫn cái vẻ mặt “thích làm sao thì làm, chết thì đi chôn”, A Viên rất tức giận, trợn mắt nguýt Vu Tam mấy lần.

Thẩm Thiều Quang bật cười, người ta không biết còn tưởng A Viên ma cũ bắt nạt ma mới…

Bởi vì chưa thể chuyển tới phòng thuê mới, trong am lại không cho khách nam ngủ lại, Thẩm Thiều Quang đành để Vu Tam ở tạm trong tiệm.

Lúc quay trở lại trong tiệm thì mặt trời vẫn còn treo trên cao, còn chưa tới giờ chuẩn bị bữa chiều, Thẩm Thiều Quang cầm kẹo lúc nãy tiện thể mua ở Tây Thị đi sang cửa hàng bên cạnh cảm ơn Lý nương tử đã trông coi tiệm và bếp lò giúp, rồi lại quay về xem Vu Tam: “Đi ra sau bếp rửa tay rửa mặt trước đã.”

Vu Tam đáp lời, sắc mặt không đổi, đi ra đằng sau.

Thẩm Thiều Quang bảo A Viên đi tới chỗ Khâu đại lang mua mấy cái bánh nướng, lại múc chút xương sườn kho đặt lên bàn ăn – trước lúc ra ngoài thì bắt đầu hầm, bây giờ đã xương xốp thịt nhừ.

Ở thời này, kẻ rủng rỉnh tiền tiêu thì mới ăn ngày ba bữa cơm, người không có tiền thì chỉ ăn hai bữa, Thẩm Thiều Quang nghĩ chắc chắn Vu Tam còn chưa ăn bữa trưa.

Chờ Vu Tam quay lại, Thẩm Thiều Quang nói: “Ăn đi.”

Vu Tam nhìn Thẩm Thiều Quang, ngồi xuống trước bàn ăn, chắc hẳn là thật sự đói bụng, tốc độ ăn không chậm nhưng dáng vẻ cũng không thô lỗ.

Chờ hắn ăn xong rồi, Thẩm Thiều Quang mới hỏi khẩu vị của hắn.

“Hơi nhiều đường, hơi ít muối.”

Thẩm Thiều Quang nhướng mày.

“… Ngon hơn ta làm.”

“…!” Được đấy, chí ít cũng có cái lưỡi tốt. Thẩm Thiều Quang luôn am hiểu việc phát hiện ưu điểm của người ta.

Thẩm Thiều Quang giải thích với Vu Tam, vì người Trường An thích ngọt, lại chỉ là đồ nhắm rượu ăn vã nên mới bỏ hơi nhiều đường, muối thì bớt đi một chút.

Vu Tam gật đầu.

“Có biết làm cá không? Đằng sau có con cá chép dài hơn một thước!” Nếu đã ăn no thì có thể làm việc rồi, đương nhiên bà chủ phải kiểm tra trình độ tay nghề của đầu bếp mới một chút.

Vu Tam lại gật đầu, hỏi Thẩm Thiều Quang: “Làm bây giờ luôn sao? Phải ăn nhân lúc còn nóng.”

Thẩm Thiều Quang cười nói: “Nếu không có khách thì tự chúng ta ăn.”

Thế là Vu Tam không nói thêm câu nào nữa, tự đi tới vại nước nhỏ sau bếp bắt cá, bắt xong thì đưa đi làm thịt.

Nhìn tay nghề làm thịt cá của hắn, trong lòng Thẩm Thiều Quang nhẹ nhõm hẳn, ít nhất thì sau này cũng không phải lo chuyện làm thịt cá nữa.

Mỗi lần nhìn A Viên cầm cây gậy đập cá, Thẩm Thiều Quang đều cảm thấy đau đớn thay cho con cá, mà mấu chốt hơn là có đôi lúc đập lung tung mãi không chết, đến lúc làm thịt con cá vẫn còn quẫy đuôi giãy bình bịch.

Cái gọi là “thấy nó sống, không nỡ thấy nó chết; nghe thấy tiếng nó, không nỡ ăn thịt nó” chính là như vậy, Thẩm Thiều Quang không phải là quân tử, cũng không thể cách xa nhà bếp, nhưng trong lòng vẫn có chút không nỡ.

Vu Tam thì nhanh gọn hơn nhiều, một nhát lấy mạng, trình độ tuyệt đối có thể sánh với đao phủ.

Vu Tam giết cá sạch sẽ gọn gàng, làm thịt cá cũng sạch sẽ gọn gàng, chặt đầu chặt đuôi, chỉ lấy lớp thịt dày ở giữa, cạo vảy cắt khúc, sau đó bọc một lớp bột súng trộn lòng trắng trứng thật mỏng, bỏ vào chảo dầu chiên lên.

Nhìn đầu cá và đuôi cá bị vứt bỏ một cách vô tình, Thẩm Thiều Quang cảm thấy, với cái kiểu chế biến tinh tế tỉ mỉ này, chủ cũ của Vu Tam tám phần mười là một kẻ sành ăn. Vu Tam nói người này bán đầu bếp đổi lấy một bữa tiệc cá có khi là nói thật cũng nên.

Cá chiên đến màu vàng óng thì múc ra, bỏ vào một cái nồi khác, cho dầu, hoa tiêu, hành, gừng chiên lên, lại đổ thêm chút rượu vàng, nước tương, giấm chua, đường và các loại gia vị khác, đun với lửa lớn, thế là xong món cá.

29 2

Múc ra đĩa đặt lên bàn, phần bên ngoài miếng cá hơi phồng lên, nước cá thì bóng nhẫy đậm đà, thoạt nhìn không tệ, ngửi mùi cũng rất thơm, không phải kho, không phải chưng, không phải sốt chua ngọt, nhìn lại hơi giống cá viên ngói ở thời hiện đại.

* Cách làm cá viên ngói tham khảo tài liệu và ghi chép của Lương Thực Thu. [tác giả]

Thẩm Thiều Quang còn chưa kịp thưởng thức món cá nóng hổi thì đã thấy một vị khách quen thường tới mua ngọc tiêm diện bước vào trong tiệm.

Vị khách quen này nhìn thấy cá thì hai mắt tỏa sáng, cười hỏi Thẩm Thiều Quang: “Thái phu nhân nhà bọn ta bữa trưa ăn không ngon miệng, bây giờ ăn cháo, muốn ăn món gì đó có chút mùi vị, bảo bọn ta tới đây xem, con cá này… có bán không?”

Đối mặt với ánh mắt tha thiết như thế, Thẩm Thiều Quang nhếch miệng lên, thôi vậy: “Ngài bưng đi đi.” Lại dặn thêm một câu: “Phải ăn nhân lúc còn nóng.”

Vị khách quen kia cười đáp: “Đa tạ, đa tạ, lát nữa ta sẽ trả lại đĩa cho ngài.” Tiệm cơm chỉ bán đồ ăn không bán đĩa, đây là quy củ.

Bán đi con cá vừa múc ra khỏi nồi, Thẩm Thiều Quang còn chưa được ăn miếng cá nào, duỗi ngón tay quẹt trong nồi, hừm, mùi vị đậm đà thơm ngon, lẫn một chút chua chua ngọt ngọt, nói chung là rất được.

Lâm Yến thì có lộc ăn hơn Thẩm Thiều Quang – dù sao hắn cũng được ăn một miếng cá.

Vừa vào phòng bà nội đã ngửi thấy mùi cá thơm lừng. Bà nội ngồi trên giường, trước mặt bày một cái bàn ăn nhỏ, trên bàn ăn là nửa bát cháo, cùng với mấy đĩa đồ ăn để ăn kèm với cháo.

“A huynh đã về rồi sao?” Giang thái phu nhân cười nói, sau đó gọi người múc cháo cho Lâm Yến. Dạo gần đây lão thái thái lại trở nên hồ đồ.

“A huynh nếm thử món cá này xem, mua ở Hội Tiên Lâu bên ngoài đấy.” Trong đĩa còn hai miếng cá, Giang thái phu nhân rất hào phóng gắp cho “a huynh” nhà mình một miếng.

Hội Tiên Lâu là một quán rượu nổi tiếng ở Hàng Châu, đến giờ đã cả trăm năm tuổi, bà nội thế này là lại đang nhớ tới lúc ông nội làm thái thú ở Hàng Châu rồi.

Lâm Yến nếm thử: “Phải, rất ngon.”

“Ngon đúng không? Nhưng ta cảm thấy món này với món cá chua ngọt lần trước không phải do một đầu bếp làm.” Giang thái phu nhân nói chuyện rất ngay thẳng.

Lâm Yến nhìn người vú già bên cạnh bà nội, vú già dùng khẩu hình nói với hắn: “Thẩm Ký.”

Lâm Yến cười bất đắc dĩ, bà nội còn nhớ món cá chua ngọt của Thẩm Ký mấy hôm trước cơ đấy, chỉ là nói không phải do một đầu bếp làm thì lại sai rồi…

 

Đăng trong Tiệm cơm nhỏ thành Trường An - Bánh Anh Đào

Tiệm cơm – Chương 28

Chương 28: Bước đầu tiên của quán rượu

Bên này Thẩm Thiều Quang đã tính đến nước phải nghiến răng chịu đựng, lại không biết là bên quán rượu Vân Lai cũng đã sa sút.

Phùng chưởng quỹ dùng ngón tay ra sức dí vào đầu Ngụy Tam: “Chỉ biết gây chuyện cho ta!”

Ngụy Tam hơi oan ức, trước đây chuyện hai tên lưu manh người Hồ đi quấy rối tiệm ăn Thẩm Ký đâu phải là không nói cho ngươi, nhưng lúc đó ngươi cười khà khà, nói gì mà “Đừng để bọn họ làm quá mức, dạy dỗ một chút là được. Người ta là cô nương, đừng để người ta chịu không nổi.”

Bây giờ biết chuyện này có dính dáng tới thiếu doãn phủ Kinh Triệu thì lại trút giận lên đầu ta.

Mặc dù trong bụng oán thầm nhưng ngoài mặt Ngụy Tam vẫn cười lấy lòng: “Chẳng qua chỉ là một tên người hầu nho nhỏ bên cạnh thiếu doãn, chưởng quỹ không cần phải lo lắng quá mức.”

“Người hầu nho nhỏ? Người hầu có thể sai khiến quản gia tự mình đi mua bánh ngọt?” Phùng chưởng quỹ tức giận nói.

Chuyện qua bao nhiêu ngày rồi tên phế vật này mới tới báo lại, bảo là hai tên vô lại kia bị giải tới pháp tào, còn bị phạt trượng hình! Hắn cảm thấy không đúng lắm, nhờ người hỏi thăm, lại nghe nói là trước Trung Thu quản gia Lâm phủ đích thân tới Thẩm Ký mua rất nhiều bánh ngọt. Hành động thế này… cũng không giống một người tôi tớ theo hầu có thể làm được.

“Ngài nói là… Lâm thiếu doãn?” Ngụy Tam kinh hãi mở to mắt: “Không thể nào chứ?”

“Sao lại không thể? Cô nương kia là một tiểu mỹ nhân đấy.”

“Tiểu mỹ nhân thì trong thành Trường An này chẳng nhiều lắm sao? Hơn nữa Lâm thiếu doãn là con cháu thế gia vọng tộc, sao có thể coi trọng một cô nương bán bánh đầu đường?” Ngụy Tam không tin suy đoán này lắm, thử nhìn mấy cô nương nghệ kỹ trên phường Bình Khang xem, vừa xinh đẹp lại biết đàn hát, còn có thể ngâm thơ vịnh phú.

Phùng chưởng quỹ cũng hơi phân vân.

Ngụy Tam đi theo Phùng chưởng quỹ không phải mới ngày một ngày hai, rất biết đoán ý đối phương: “Ta khuyên ngài cũng đừng lo lắng quá. Cho dù là Lâm thiếu doãn thì sao chứ? Bây giờ thì có thể hiển hách huy hoàng, ai biết được ngày nào đó lại đắc tội với người ta, bị trục xuất tới chỗ khỉ ho cò gáy nào đó thì sao. Quan trong phủ Kinh Triệu đổi chăm lắm.”

Thấy Phùng chưởng quỹ không nói gì, Ngụy Tam lại bồi thêm một câu: “Chúng ta đây chẳng phải đã trải qua mấy vị thiếu doãn sao? Thật đúng là còn chăm đổi hơn quán chúng ta đổi chén đổi đĩa.”

Phùng chưởng quỹ đá Ngụy Tam một cú, cười mắng: “Chuyện được giao thì làm không xong, nhưng bản lĩnh nói nhảm lại đứng hàng đầu.” Vẻ mặt đã dịu đi đôi phần.

Chưa tính tới những lời Ngụy Tam nói mà hãy nói về Lâm thiếu doãn trước, người này cũng không phải là kiểu quần là áo lượt sẽ vì một cô nương mà làm gì đó, hơn nữa hai tên vô lại kia cũng chưa gây ra chuyện gì lớn. Vừa rồi sốt ruột như vậy chủ yếu là sợ gây ra phiền toái cho chủ nhân, chủ nhân là người thuần hậu cẩn thận, mỗi lần gặp gỡ đều dặn dò mọi người ở trong kinh thành phải an phận, phải đàng hoàng, lại nghe nói hằng năm vương phủ đều phải tiêu tốn rất nhiều tiền cho các đại thần trong triều…

“Được rồi, dù sao chuyện cũng đã như vậy rồi. Cho dù cô nương kia có quan hệ gì với Lâm phủ hay không thì cũng không được chọc vào nàng ta nữa.” Lại dặn thêm một câu: “Sau này đàng hoàng một chút, đừng rước vào người mấy chuyện không đâu.”

Phùng chưởng quỹ cũng tự nhắc nhở bản thân sau này phải cẩn thận, kinh thành này rắc rối phức tạp, con chuột chạy trên đường cũng có thể là sủng vật của tể tướng cơ mà…

Thẩm Thiều Quang thì đang bàn bạc chuyện thuê lại mặt tiền cửa hàng vải vóc bên cạnh.

Thẩm Thiều Quang và Lý nương tử chủ cửa hàng vải vóc cũng coi như người quen, hai người thường xuyên trao đổi mấy điều tâm đắc trong nấu nướng. Thẩm Thiều Quang nói chuyện với nàng ta, lộ ý muốn thuê một cửa hàng rộng hơn, vốn là nghĩ rằng nàng ta ở chỗ này đã lâu nên quen thuộc, muốn nhờ nàng ta hỏi thăm giúp, không ngờ rằng Lý nương tử lại vỗ tay ngay: “Ngươi thuê luôn cửa hàng của ta, hai cái hợp làm một chẳng phải là rất tốt sao?”

Tướng công của Lý nương tử là Quách đại lang tới thành Trường An từ năm mười mấy tuổi, học nghề ở một tiệm tơ lụa lớn ở Tây Thị, hai mươi mấy tuổi thì cưới Lý nương tử, sau khi thành hôn thì Lý nương tử dùng của hồi môn thuê một cửa hàng nho nhỏ, hai người buôn bán vải vóc.

Chắt chắt bóp bóp hai mươi mấy năm, vợ chồng Quách gia cũng đã tích cóp được chút tiền, bây giờ cha mẹ đã già, hài tử ở quê cũng đã thành gia lập thất, cho nên hai người muốn về quê sống với họ hàng anh em – rất nhiều người làm ăn xa quê đều như vậy.

Hồi hương an cư là chuyện tốt, Thẩm Thiều Quang không biết tới bao giờ thì mình mới có thể thoải mái về mặt tiền bạc để sống cuộc sống an nhàn, nàng cười chúc mừng Lý nương tử, lại hỏi thăm về chủ cho thuê và tiền thuê cửa hàng này.

Từ lúc con trai cưới vợ, Lý nương tử đã bắt đầu tính toán đến chuyện về quê hưởng phúc, nhưng tiền thuê đã giao tới tận sang năm, nếu bây giờ có người thuê lại thì hẳn là có thể lấy lại khoản tiền thuê này, cho nên lập tức cười đáp lại Thẩm Thiều Quang: “Cô nương cứ yên tâm, chủ nhà này rất là bớt chuyện, lần nào cũng là quản gia đứng ra thu tiền, chúng ta thuê cửa hàng này đã bảy, tám năm rồi mà chưa từng dong dài, cũng chưa từng tăng tiền thuê.”

Thẩm Thiều Quang cũng coi trọng chỗ này, mở rộng mặt tiền ngay tại đây thì quá tốt, vất vả lắm mới gây dựng được chút thanh danh, có thể không đổi chỗ thì vẫn không nên đổi chỗ, huống hồ tiền thuê cũng không đắt, cửa hàng mặt tiền này rộng chừng ba bốn mươi thước vuông, phía sau là ba gian nhà, một cái sân nhỏ, mỗi tháng một ngàn năm trăm văn, nếu là lúc trước bán bánh rán ở cửa phường thì chắc chắn là không thuê nổi, nhưng bây giờ muốn thuê lại dễ.

Thẩm Thiều Quang liền nhờ vợ chồng Quách gia nói giúp.

Quả nhiên người tới bàn chuyện ký khế ước là một người có điệu bộ quản gia, nghe nói Thẩm Thiều Quang muốn thuê làm quán rượu, lại nghe nói nàng muốn sáp nhập với tiệm ăn ngay bên cạnh thì không khỏi nhíu mày – nhiều quán rượu nhỏ rất lôi thôi bẩn thỉu, sau này muốn cho người khác thuê lại thì còn phải tới quét vôi, như vậy quá phiền phức, huống hồ còn muốn đập tường!

Thẩm Thiều Quang mời hắn sang tiệm ăn bên cạnh của mình quan sát, lại cười nói: “Đến lúc ta không thuê nữa sẽ tìm thợ xây lại tường, chắc chắn không dám để lại phiền phức, cái này có thể viết vào trong khế ước.”

Người quản gia kia vừa bước vào quán đã thấy đập ngay vào mắt là bức tường trắng xóa, bình sứ trắng lọ trúc xanh, siêu nước bằng đồng được lau sáng bóng, hắn không khỏi ngẩn ra, nhớ tới trước kia chỗ này là cửa hàng thịt, bức tường bên trong đen thui, nền nhà lồi lõm nhấp nhô, cái bàn dính dớp bẩn thỉu, lại nghe Thẩm Thiều Quang nói bằng lòng sau này sẽ xây lại tường, ngẫm nghĩ lại, cuối cùng cũng đồng ý.

Vợ chồng Quách gia nhớ nhà, quyết định thời gian bàn giao cửa hàng là một tháng sau, người quản gia kia cũng không làm khó, thật sự trả lại tiền thuê cho bọn họ, rồi lại lập khế ước với Thẩm Thiều Quang, thu tiền, ba bên giao nhận rõ ràng. Như vậy Thẩm Thiều Quang chỉ còn chờ sang tháng sau dọn nhà, trùng tu bày biện cửa hàng mới.

A Viên lại càng thêm bội phục cô nương nhà mình, cô nương đúng là nói được thì làm được, nói “thở thật vang dội” thì đúng là “thở thật vang dội”!

A Viên lại mừng rỡ: “Bây giờ chúng ta cũng có chỗ của mình rồi! Đỡ phải ở trong am, phải nhìn mặt ni cô Tịnh Từ kia. Nàng ta khách khí với Bàng nhị nương như vậy mà đối xử với cô nương lại lạnh nhạt thế kia, tưởng là chúng ta không nhìn ra sao?” Nói đến phần sau thì có phần tức giận bất bình.

Thẩm Thiều Quang thấy buồn cười, người ta chỉ sợ ngươi không nhìn ra đấy!

Thẩm Thiều Quang đột nhiên cảm thấy hơi hổ thẹn với A Viên, tỳ nữ trong nhà danh gia vọng tộc đều kiêu căng ngạo mạn, sống an nhàn sung sướng, giống như trong Hồng lâu mộng nói, có thể so với “Phó tiểu thư”, còn tỳ nữ của “nữ tử xuất thân thế gia” là nàng đây thì ngày ngày rửa chén lau bát, nhặt rau thái thịt, có lúc còn phải động thủ đánh kẻ vô lại…

Nàng quay đầu nhìn A Viên, nàng ta đã vui vẻ đi thu dọn đồ đạc của mình.

“Ngươi vội cái gì chứ? Còn phải đợi mấy ngày nữa, Lý nương tử dọn đi rồi, chúng ta cũng phải thu dọn lại mấy gian nhà kia một lượt mới dọn tới ở được.”

“Nhưng mà ta vui! Ta dọn trước.”

Ai chà, vui là tốt, Thẩm Thiều Quang không quản A Viên nữa, nàng ngồi nghĩ ngợi, nếu mở rộng cửa hàng rồi thì chỉ có hai người chắc chắn không ôm hết việc được, phải tăng thêm nhân thủ nữa.

 

 

Đăng trong Tiệm cơm nhỏ thành Trường An - Bánh Anh Đào

Tiệm cơm – Chương 27

Chương 27: Vấn đề ngừng thở

Thẩm Thiều Quang tiếp tục mở rộng chủng loại đồ ăn trong tiệm.

Mua xong cá nheo, hai ngày sau đó, không ngờ lại gặp được người bán cá kia, Thẩm Thiều Quang vội vàng tới hỏi thăm.

Người bán cá kia sống ở ngoại thành, bây giờ đã qua vụ thu hoạch, có thời gian rảnh thì thỉnh thoảng tới bờ sông câu cá thả lưới. Nếu thả lưới được nhiều thì sẽ bỏ trong chum, sáng hôm sau đưa vào thành bán kiếm chút tiền.

Thẩm Thiều Quang lại hỏi: “Mỗi lần có thể thả được bao nhiêu?”

Người kia cười đáp: “Cô nương hỏi câu này là không hiểu nghề của bọn ta rồi, cái này sao có thể nói chính xác được? Cá to dài hơn một thước thì đôi khi được vài ba con, đôi khi lại được sáu bảy con, lớn chừng bàn tay thì nhiều hơn một chút, nhưng đôi khi lại chỉ được vài con cá con con.” Lại nói chủ yếu là thu được cá mè, cá chép, cá diếc.

Thẩm Thiều Quang cười hỏi: “Nói thế nghĩa là hai con cá nheo hôm trước là ta gặp may?”

Đại thúc bán cá cũng cười: “Đúng là gặp may. Thả lưới không được mấy con cá nheo, loài này rất gian xảo, huống hồ là cá nheo lớn như vậy.”

Thẩm Thiều Quang bàn bạc với người bán cá để mỗi lần có cá hắn sẽ đưa thẳng tới tiệm của nàng, không quản lớn nhỏ, chỉ cần còn tươi là được.

Không cần phải rao bán, đương nhiên là người bán cá bằng lòng ngay, vội vàng đồng ý.

Mỗi lần cá lớn bé khác nhau, chủng loại cũng không giống nhau, đương nhiên cách làm sẽ phải khác nhau, không thể nào ghi cụ thể trên thực đơn, Thẩm Thiều Quang nghĩ ngợi một lúc, quyết định phân ra làm hai loại “xích lân ngân ngọc” và “cẩm khẩu tiểu tiên”, cái trước suất to, cái sau suất nhỏ, không phân chủng loại cách làm, định hai mức giá, đơn giản mà dứt khoát.

Ngày hôm sau Thẩm Thiều Quang nhận được ba con cá chép hoa dài hơn một thước, cùng với mấy con cá diếc nhỏ dài hai tấc.

Cá diếc thì dễ xử lý, cứ muối như trước kia là được.

Còn cá chép hoa thì phần ngon nhất là đầu cá – đầu to, thịt mềm, nếu như là kiếp trước thì cho thêm ớt băm nhỏ rồi hấp, hấp xong thì tưới dầu hoa tiêu, vừa cay vừa thơm, không biết là ngon cỡ nào, nhưng bây giờ không có ớt, cho nên không thể làm gì khác ngoài cách thêm đậu phụ, dùng niêu đất hầm lên. Còn thân cá thì vo thành viên là được rồi.

Món đầu cá chép hoa hầm đậu phụ cũng không có bí quyết gì đặc biệt, nhưng nhiều người hầm không ra được nước canh trắng như sữa lại thơm nồng, vẻ bề ngoài đã thua một bậc.

Bí quyết của nước canh là ở chỗ phải rán trước, sau đó mới thêm nước vào rồi đun lửa lớn.

Cái gọi là canh sữa chẳng qua chỉ là kết quả của quá trình nhũ hóa dầu trong canh, lửa lớn thúc đẩy quá trình nhũ hóa của các hạt chất béo, kết hợp với nước tạo thành dịch sữa. Nếu chiên không đủ dầu, hoặc là chưng lửa nhỏ như thịt mã não thì chắc chắn không ra được nước canh màu trắng sữa.

Thẩm Thiều Quang nhìn nồi nước canh trắng như sữa bò tỏa mùi thơm nức trước mặt thì chậc chậc hai tiếng, đây không phải một nồi canh mà là một nồi mỡ!

Nhưng không thể phủ nhận rằng nồi canh này rất ngon! Mùi vị ngon nhất trên đời không gì bằng cholesterol, thứ khó ăn nhất là thực phẩm dinh dưỡng*, lời này quả là không sai chút nào.

* Một câu nói của Thái Lan [tác giả]. Thái Lan là một doanh nhân, nhà sản xuất phim, người dẫn chương trình và cũng là một chuyên gia ẩm thực có tiếng. Ông hiện là Chủ tịch danh dự của Hiệp hội ẩm thực lành mạnh người Hoa toàn thế giới.

Phường đinh Lưu Kim, Vương Thanh gọi một giác rượu, hai đĩa đậu hoa lan và rau trộn, thêm hai cái móng heo, ăn cho miệng dính đầy dầu mỡ.

A Viên bưng lên một tô đầu cá hầm đậu phụ.

Lưu Kim đã uống không ít nhưng vẫn còn chưa say lắm: “Bọn ta đâu có gọi cái này?”

Thẩm Thiều Quang đi tới, cười nói: “Đây là tiệm ta mời. Bình thường may có các vị lang quân chiếu cố, tiệm bọn ta mới có thể buôn bán yên ổn.” Cái này là nói tới chuyện hôm đó hai người dẫn hai kẻ vô lại kia đi.

Lưu Kim vóc dáng không cao, khuôn mặt tam giác trang nghiêm không lớn lắm, đôi mắt hơi lồi, thoạt nhìn có nét giống kiến thành tinh, cũng là thủ lĩnh đám phường đinh trong phường Sùng Hiền, đương nhiên là cũng luyện được tính khôn khéo, lập tức cười đáp: “Cô nương khách khí rồi.”

Thẩm Thiều Quang cầm hai cái bát không, tự mình múc canh cá cho hai người.

Lưu Kim lại hơi sợ hãi, đứng lên nhận lấy cái bát, cười nói: “Cái này để ta tự làm là được.”

Vương Thanh cũng vội vàng đứng lên.

Thẩm Thiều Quang vẫn giúp hai người múc canh, cười nói: “Hai vị lang quân nếm thử xem có ăn được không?”

Lưu Kim cười đáp lại trước: “Nếu cả cái này còn không ăn được thì mấy món bán trên đường đều phải đổ xuống mương hết.”

Hai người đều nếm thử, dù rằng vừa rồi đã bị rượu và móng heo đậm đà làm lửng bụng nhưng bây giờ vẫn bị bát canh thơm nồng kích thích: “Ngon! Ngon lắm!”

Vương Thanh cúi đầu ra sức ăn, Lưu Kim lại không vội, quay sang cười nói với Thẩm Thiều Quang: “Cô nương đừng lo lắng, ngài là người có phúc, tự có quý nhân bảo hộ.”

Thẩm Thiều Quang cười nhíu mày, lời này là có ý gì?

Đương nhiên Lưu Kim biết tại sao cô nương chủ tiệm này lại bưng đồ ăn lên rồi còn múc canh ra cho mình. Hai tên vô lại kia là do huyện pháp tào tham quân Trường An thẩm vấn, Lưu Kim là thủ lĩnh phường đinh phường Sùng Hiền, ít nhiều gì cũng có chút mặt mũi trong pháp tào tham quân, cho nên cũng biết hai tên vô lại kia bị xử thế nào.

* Pháp tào tham quân là cơ quan chuyên xét xử các vụ án.

Bắt người tay ngắn cắn người miệng mềm, Lưu Kim liền nói thật cho nàng biết: “Hai tên kia đều bị phạt trượng hình, chắc chắn sẽ không dám tới quấy rối nữa.”

Lúc còn ở trong cung, nàng đã từng đọc qua một ít luật thời Đường, bị đánh từ năm mươi gậy trở xuống thì gọi là xuy hình, đánh từ sáu mươi tới một trăm gậy thì mới gọi là trượng hình. Hai người này bị phạt không nhẹ nhỉ.

Thẩm Thiều Quang gật đầu: “Chắc hẳn hai tên vô lại kia thấy ta là nữ tử nên mới tới quấy rối.” Nói xong lại lắc đầu thở dài: “Nữ tử tự thân lập nghiệp, đúng là không dễ dàng gì.”

Có thể là vì đã uống hơi nhiều, cũng có thể là vì thấy mỹ nhân thở dài, có chút không nỡ, đương nhiên, nguyên nhân chủ yếu vẫn là nợ nhân tình của người ta, Lưu Kim nhìn trái nhìn phải thấy không có người thì thấp giọng nói: “Cô nương đề phòng một chút, nghe nói là bởi vì thấy cô nương mở quán ăn, lại bán cả rượu cả thịt, còn làm ăn phát đạt như vậy, làm mất mặt quán rượu lớn.” Lại còn tỏ ra thần bí, lấy ngón tay chấm rượu viết lên bàn một chữ “Vân”.

Lúc đầu Thẩm Thiều Quang chỉ là lại nổi chứng vọng tưởng, thuận miệng giả bộ gạ hỏi một câu, không ngờ rằng thực sự là có chuyện mờ ám! Quán ăn nhỏ của mình so với quán rượu Vân Lai thì còn kém xa, có cần phải thế không?

Thẩm Thiều Quang lại muốn nghe ngóng về “quý nhân” che chở cho mình, nhưng Lưu Kim lại cười, cái này sao có thể nói ra được chứ? Ngày đó người tới tìm hắn là tôi tớ theo hầu bên cạnh Lâm thiếu doãn của phủ Kinh Triệu, huyện pháp tào tòng quân Trường An lại xử hai tên vô lại kia nặng như vậy, chắc hẳn cũng là vì hắn đã đánh tiếng. Cô nương chủ tiệm này vừa trẻ tuổi vừa xinh đẹp, người tôi tớ họ Lưu lại tuổi trẻ khí thịnh, thế này…

Tể tướng cạnh nhà là quan thất phẩm, mặc dù Lâm thiếu doãn không phải là tể tướng nhưng cũng là quan to áo đỏ, mấu chốt là hắn còn làm quan ở phủ Kinh Triệu, quan trọng hơn nữa là Lâm phủ ở ngay trong phường, cúi đầu không gặp ngẩng đầu gặp, tạo quan hệ tốt cũng không hại đi đâu được.

Hoặc giả như người tôi tớ họ Lưu kia là làm việc thay quý nhân… Vậy thì lại càng khỏi phải nói! Lưu Kim híp đôi mắt đã hơi lờ đờ nhìn Thẩm Thiều Quang, đúng là một tiểu mỹ nhân xinh đẹp, ai biết về sau phúc phận thế nào? Ở thành Trường An này xưa nay thiếu gì chuyện kỳ lạ!

Thẩm Thiều Quang thấy hắn không nói thì cũng thôi. Có lẽ vị khách nào đó là đại lão thâm tàng bất lộ, ví dụ như là tể tướng đương triều hay gì đó, lúc đó trong lòng căm phẫn, thấy nàng và A Viên chỉ là hai nữ tử yếu đuối gặp cảnh khốn khó thì ra tay tương trợ?

Nữ tử yếu đuối A Viên dùng một tay xách một túi gạo đi vào: “Cô nương, cô nương tới kiểm tra gạo thử xem!”

Thẩm Thiều Quang đáp lời, cười nói với hai người Lưu Kim thêm vài câu rồi đi vào trong bếp.

Buổi tối về am, trong lúc ngâm chân, Thẩm Thiều Quang nói cho A Viên biết chuyện hai tên vô lại kia là do quán rượu khác gọi tới quấy rối.

Đối đầu với vô lại dám vung nắm đấm, nhưng nghe nói kẻ địch là quán rượu lớn thì A Viên hơi sợ hãi: “Nếu bọn họ lại bày trò thì phải làm sao đây?”

“Sợ tôm càng kêu thì không cày ruộng nữa sao?” Thẩm Thiều Quang cười nói: “Cần làm cái gì thì cứ tiếp tục làm cái đó, cẩn thận một chút là được.”

A Viên hơi lưỡng lự một lúc, cuối cùng cũng nói ra suy nghĩ của mình: “Chúng ta có cần thu mình lại một chút, đừng bán nhiều rượu thịt như vậy nữa không?”

Thẩm Thiều Quang giải thích cho nàng ta: “Nếu cứ theo ý của bọn họ thì chúng ta chỉ có nước bán bánh rán ở cửa phường mới được yên ổn. Mà cho dù bán bánh rán thì chỉ sợ là cũng chướng mắt đôi người.” Nói xong còn cố ý chớp chớp mắt ra hiệu với A Viên.

A Viên bật cười, biết là nàng ám chỉ Lô tam nương.

“Sống ở trên đời này ấy à, ắt sẽ có người cảm thấy ngươi đang hít thở luồng không khí mà hắn muốn hít thở, nhưng chúng ta cũng không thể vì vậy mà không hít thở nữa, đúng không?”

A Viên nghĩ ngợi, rất đúng! Không hít thở nữa thì chẳng phải sẽ chết sao?

“Chúng ta không chỉ phải hít thở, mà còn phải quang minh chính đại hít thở thật vang dội! Thở thật nhanh thật mạnh!” Thẩm Thiều Quang tức giận nói.

A Viên yên lặng một lúc, sau đó nói: “Nghe nói thở vừa mạnh vừa gấp thì gọi là “chứng hen suyễn”…”

Thẩm Thiều Quang cắn răng, cầm tất lên muốn đập vào đầu nàng ta, A Viên bật cười thành tiếng.

Thẩm Thiều Quang cũng cười, buông tất xuống, nghĩ xem phải “thở thật vang dội” thế nào, nếu quán ăn bán rượu bán thịt là không hợp quy củ thì phải mở rộng mặt tiền cửa hàng, chính thức đổi tên, gọi là quán rượu luôn – danh chính thì ngôn thuận mà.

Đương nhiên, Thẩm Thiều Quang cũng đã chuẩn bị cho cảnh bị người ta bóp cổ, khi đó thì lại chuyển tới chỗ khác bày sạp bán bánh rán thôi, cũng đâu phải là chưa từng bán đâu…

 

 

Đăng trong Tiệm cơm nhỏ thành Trường An - Bánh Anh Đào

Tiệm cơm – Chương 26

Chương 26: Hai vị khách tới muộn

Thẩm Thiều Quang mời Liễu Phong ngồi trước cái bàn ăn nhỏ, nàng ngồi ở đối diện, lại bảo A Viên bưng sữa bò lên.

Liễu Phong liếc mắt nhìn Thẩm Thiều Quang, khuôn mặt hơi ửng đỏ, lại cúi xuống nhìn hoa văn trên bàn: “Không biết cô nương muốn nói chuyện gì với ta?”

“Công tử có biết thân thế của ta không?” Thẩm Thiều Quang nhẹ nhàng hỏi.

“Có nghe Tịnh Thanh sư phụ trong am Quang Minh nói qua.”

Thẩm Thiều Quang gật đầu, có thể đoán được Tịnh Thanh nói cái gì, mấy lời khen kiểu “thục nữ Thẩm thị ở Lạc Hạ”, “dù trong nhà sa sút, bị ép phải làm mấy nghề lặt vặt nhưng lại tinh thông thi từ, hiểu biết sâu rộng”, thậm chí còn “hiền lành nhân đức”, “lương thiện cần cù” chắc chắn là đếm không xuể – Tịnh Thanh là một người tốt, chắc chắn là cảm thấy nàng có thể tìm được một vị công tử như Liễu Phong, tránh được nỗi vất vả phải bươn chải nơi đầu đường xó chợ là một chuyện may mắn, cho nên sẽ ra sức nói tốt cho nàng.

“Ta chỉ tạm tá túc trong am Quang Minh, có nhiều chuyện Tịnh Thanh sư phụ cũng không biết rõ.” Thẩm Thiều Quang mỉm cười, bắt đầu giải thích với hắn.

“Ta xuất thân từ Thẩm thị ở Lạc Hạ, là cung nữ trong Dịch Đình, mới được thả ra mùa xuân năm nay.”

Liễu Phong chợt ngẩng đầu lên, con gái danh gia vọng tộc phần lớn đều tiến cung làm phi tần, hiếm có người đi làm cung nữ, trừ phi người nhà mang tội, bị đẩy vào Dịch Đình. Thẩm cô nương có thể được thả ra thì rõ ràng không phải là phi tần, như vậy chỉ có thể là…

Biết hắn nghe hiểu được ý mình, người ta đã tôn trọng nàng, đương nhiên nàng không thể khiến người ta rước vào tiếng xấu là “chê nghèo ham giàu” hay “lật lọng”, Thẩm Thiều Quang đã tìm được cớ để giải thích cho mối hôn sự không thành này: “Ta hiện giờ chưa có ý với hôn nhân, chỉ muốn sống yên phận, kiếm tiền nuôi mình, mua đất dựng nhà, giết gà mổ vịt…” Nói tới phần sau thì giọng điệu xen lẫn vui đùa, Thẩm Thiều Quang tự bật cười trước.

Liễu Phong cũng khẽ cười.

“Là do ta đã đường đột.” Yên lặng một lúc, Liễu Phong đứng lên chắp tay vái chào Thẩm Thiều Quang.

Thẩm Thiều Quang cũng đứng lên, đàng hoàng đáp lễ, mỉm cười nói: “Là vinh hạnh của ta.”

Liễu Phong liếm môi, muốn nói gì đó nhưng cuối cùng vẫn không nói gì, cúi đầu đi ra ngoài.

Không ngờ ra tới cửa thì lại gặp phải Lâm thiếu doãn, người này là tới đây để ăn sao?

Liễu Phong hành lễ với Lâm Yến.

Lâm Yến gật đầu, đi vào trong tiệm.

“Khách nhân muốn ăn cái gì? Chi bằng nếm thử món bánh canh thịt gà? Lại thêm một đĩa rau trộn kiểu Hồ và gà rang mắm tôm?”

“Được.”

Loáng thoáng nghe thấy Thẩm cô nương giới thiệu món ăn và câu trả lời “Được” của vị cấp trên luôn kiệm lời của mình, Liễu Phong cảm giác mình đã nghĩ nhiều rồi, Thẩm cô nương và Lâm thiếu doãn… không có khả năng.

Liễu Phong đoán, có lẽ Lâm thiếu doãn bị Trương Công của Hồng Lư Tự hành hạ cả ngày, làm trái lệnh cấm đi đêm để quay về phường, không kịp ăn bữa chiều, bây giờ mới ra ngoài tìm chút đồ ăn lót dạ.

Gần đây sứ đoàn của các phiên bang cùng tề tụ về triều, mặc dù nhiệm vụ tiếp đón chủ yếu là của Hồng Lư Tự nhưng vẫn có rất nhiều chuyện cần phủ Kinh Triệu phối hợp, người phụ trách của phủ Kinh Triệu chính là Lâm thiếu doãn.

Hai bên thường qua lại với nhau, Liễu Phong cũng khá hiểu Hồng Lư Tự khanh. Vị Trương Công này là người cẩn thận chi tiết quá cỡ, cho dù chỉ là vài cái xa giá cũng phải “bàn bạc tiếp”, sau đó thì “Trong “Lễ”… Thời nhà Hán… Triều Thái Tông… Triều Cao Tông… Triều Huyền Tông…” Đúng là khiến người ta nhức hết cả đầu.

Trưa hôm nay hắn đi tìm Lâm thiếu doãn phê duyệt văn thư thì không gặp được, nghe nói là tới Hồng Lư Tự… Liễu Phong cũng thấy đồng cảm cho vị cấp trên trẻ tuổi này, đúng là quan to thì có cái phiền của quan to.

Thẩm Thiều Quang hơi bất đắc dĩ, tại sao vị này cứ toàn tới ăn cơm vào giờ này? Đồ ăn đều bán hết cả rồi có biết không?

Chỉ có thể có cái gì làm cái đó, gà trong hũ đã bán hết, chỉ còn thừa chút canh gà, nhào chút bột, bỏ thêm rau xanh, làm bát bánh canh gà vậy. Nàng cầm dưa chuột lên gọt vỏ, thái sợi, cho thêm tỏi băm vụn và dầu mè rồi trộn lên; lại mấy miếng thịt gà, một thìa mắm tôm, cho vào chảo rang lên, đều là món ăn nhanh, làm chốc lát đã xong.

Tiếng dao gõ lên mặt thớt, tiếng muôi va vào đáy chảo, vì trong tiệm đã được cải tạo, không thể nhìn thấy tình hình trong bếp nhưng chỉ riêng mấy âm thanh này đã khiến bầu không khí trở nên rất bình dị, nhuộm đầy mùi khói lửa nhân gian.

Lâm Yến quay đầu nhìn, ánh mắt dừng ở bức tranh treo trên tường, dãy núi thấp thoáng xa xa, dòng suối uốn lượn, nửa mái nhà tranh, cạnh cửa đặt một cái chõng tre, đứa bé ngồi trên chõng tre lột đài sen. Không dùng tới màu sắc, chỉ hai màu đen trắng tạo nên một bức thủy mặc sinh động, kỹ thuật vẽ tranh không phải là xuất sắc nhưng lại ẩn chứa vẻ điềm đạm thanh cao. Mặc dù trên tranh không đề lạc khoản không có đóng dấu nhưng Lâm Yến cũng biết đây là do chủ tiệm tự vẽ.

Lâm Yến đột nhiên nhớ tới chuyện ngoài cửa cung hôm đó.

Hôm đó trên triều tập trung bàn bạc các biện pháp chống hạn, hạ triều hắn tiện thể tới cửa An Phúc xem, mặc dù chuyện thả cung nữ chỉ là chuyện nhỏ nhưng cũng góp một phần vào việc chống hạn, không thể để xảy ra bất cứ sơ suất nào được.

Từ xa xa đã thấy một cung nữ trẻ tuổi mỉm cười vui vẻ giữa một đám cung nữ già nua đang khóc lóc nỉ non.

Hiện giờ thánh thượng còn chưa tới tuổi thành gia lập thất, lại chưa lập hậu, cũng không có nhiều phi tần, như vậy thì chỉ có thể là cung nữ…

Thế mà nàng lại hoạt bát sống động như thoát khỏi nhà tù, nói thế nào nhỉ, “ốm yếu”… Nghĩ cái đã biết ngay là không phải bị đuổi ra khỏi cung mà là cố ý tìm cách ra, chưa biết chừng còn dùng tới bao nhiêu thủ đoạn tiền bạc. Lúc đó hắn bị dáng vẻ hoạt bát của nàng cảm hóa, đột nhiên nhẹ dạ, thả cho nàng một lối.

Nàng ra khỏi cung rồi, vẫn cứ hoạt bát như vậy, mang theo “khí chất hoang dã” hiếm thấy trên người con cháu danh gia vọng tộc, giống như ngọn cỏ mùa xuân, khiến người ta cứ muốn nhìn xem rốt cuộc nàng có thể mọc tiếp thành hình dáng thế nào.

Ra khỏi cung thì bôn ba cơm canh rau thịt, nhà tranh quán nhỏ, có thú vị hơn chăng? Ánh mắt Lâm Yến đảo qua tiệm ăn nho nhỏ, lại liếc mắt nhìn bức họa kia, đúng là cũng có chút thú vị thật.

Có lẽ mỗi người đứng trên đỉnh cao đều ấp ủ giấc mộng ẩn sĩ, cũng giống như mỗi kẻ không quyền không thế đều nuôi mộng binh quyền. Quả thật Lâm Yến có đôi phần bị lay động bởi ý vị sâu xa bên trong bức tranh này, nhưng mà chỉ là một Thẩm cô nương… Nghĩ tới dáng vẻ buồn bã ỉu xìu của Liễu lục sự lúc nãy, còn cả chuyện trước đó hắn thà bị đói cũng chỉ muốn mua bánh rán của Thẩm cô nương, chẳng lẽ…

Lâm Yến đột nhiên nhíu mày, nghĩ ngợi mấy chuyện chẳng liên quan gì tới mình như thế này làm gì? Lúc còn nhỏ thấy một con thiêu thân cũng có thể tưởng tượng ra cả một câu chuyện cổ tích, đến giờ vẫn chưa hết cái tật đó sao? Sau đó hắn lại quay sang nghĩ tới chuyện sứ đoàn.

Thẩm Thiều Quang bưng khay đựng rau và bánh canh tới, đặt trên cái bàn nhỏ. Thẩm Thiều Quang phát hiện ra, vị Lâm thiếu doãn này trước giờ chưa từng ngồi trước bàn dài, chắc hẳn là không thích “diện bích”…

* “Diện bích”  nghĩa là xoay mặt vào tường.

“Khách nhân từ từ thưởng thức.”

Lâm Yến gật đầu nói cảm ơn.

A Viên mang bát đũa đã rửa sạch từ đằng sau vào thì Thẩm Thiều Quang đã lau dọn bếp núc xong xuôi, bảo nàng ta xách một ít nước nóng về trong am tắm rửa trước, nàng ở lại khóa cửa tiệm sau.

“Ta đợi cô nương.”

Thẩm Thiều Quang nhẹ giọng nói: “Ngươi về trước đi, trên đường cũng đâu có ít người, không sao đâu.” Cô bé này vất vả cả ngày, cứ như ngủ không đủ giấc, để nàng ta về sớm tắm rửa đi ngủ trước.

A Viên lắc đầu, thấy không có việc gì nữa thì đi ra ngồi trên bậc thềm ngoài cửa tiệm chờ Thẩm Thiều Quang.

Thẩm Thiều Quang bất đắc dĩ bật cười.

Thẩm Thiều Quang đứng ở sau quầy, tay chống cằm, nghĩ tới chuyện Liễu Phong.

Làm gì có nhiều chuyện nhất kiến chung tình, không phải người đó thì không cưới như vậy? Đây mới là cuộc sống của người bình thường. Chỉ là kiếp trước còn chưa có bạn trai chưa kết hôn đã xuyên tới đây, kiếp này xem ra cũng phải làm FA rồi, bảo sao lại ở trong am ni cô. Sau này già rồi, cô đơn – Thẩm Thiều Quang tưởng tượng ra cảnh một mình sống trong một căn nhà lớn, bên cạnh đầy tôi tớ, đông ngắm tuyết, hạ ăn dưa,… Như vậy thật là tuyệt!

Cho nên phải kiếm tiền trước đã.

Lâm Yến ăn uống xong xuôi, quay đầu lại thì bắt gặp vẻ mặt an nhàn của Thẩm Thiều Quang: “Chủ tiệm…”

“Tới đây! Khách nhân ăn xong rồi sao?” Thẩm Thiều Quang lập tức đổi sang khuôn mặt tươi cười khéo léo.

Lâm Yến gật đầu.

“Một trăm văn thưa khách nhân.” Trong đó tiền vốn là hai mươi văn, phần còn lại là tiền công và tiền làm thêm giờ. Vị huynh đệ này toàn tới vào giờ này, món nào cũng phải nấu lẻ, lấy nhiều tiền một chút cũng không quá đáng.

Lâm Yến móc từ trong hầu bao ra một thỏi bạc, đặt xuống rồi đi ra ngoài.

Lại là chừng hai lạng bạc, Thẩm Thiều Quang cảm thấy mình lại bước lại gần cuộc sống của phú bà thêm một bước, tâm trạng càng tốt thêm!

Rửa bát đĩa xong, tắt đèn, khóa cửa lại, Thẩm Thiều Quang vỗ vỗ A Viên đã ngồi ngủ gật trên bậc thềm: “Về thôi, về ngủ!”

 

Đăng trong Tiệm cơm nhỏ thành Trường An - Bánh Anh Đào

Tiệm cơm – Chương 25

Chương 25: Tới cửa đề thân

Gió thu phơ phất, chính là thời điểm thích hợp để ăn cá.

Bậc trí thức tao nhã xem trọng “thuần lư chi tư*”, Thẩm Thiều Quang lại xách về hai con cá nheo dài hơn hai thước.

*Trương Hàn (nhà văn đời Tây Tấn) thấy gió thu nổi lên, chợt nhớ rau cô, canh rau nhút (thuần), nem cá lư (lư) ở quê Ngô Trung, bèn nói: “Đời người quý ở chỗ được thỏa ý, sao có thể làm quan tha hương mấy ngàn dặm để cầu danh tước!”

Cá nheo cũng không phải thứ đắt đỏ gì, không thể so được với mấy loại đắt hàng được giá như cá mè, cá chép, cá rô, cá lư, có câu thơ tả nó rằng “ngu bướng bậc nhất*”, rất là thiếu vẻ lịch sự tao nhã. Nhưng bà chủ một tiệm ăn nhỏ đầu đường như Thẩm Thiều Quang thì để ý mấy chuyện lịch sự tao nhã làm gì?

* Trích “Bài ca xem thả cá” của Lư Đồng. [tác giả]

Loài cá nheo này có sức sống rất mãnh liệt, ra khỏi nước một hồi mà vẫn còn quẫy đuôi bình bịch, nếu không đề phòng bị đuôi cá đập vào chân thì thật sự rất đau – cái khác chưa nói, tính cách này thật đúng là “ngu bướng”.

Thẩm Thiều Quang hơi phiền lòng, không biết lát nữa phải làm thịt nó thế nào, lại không khỏi nhớ tới kiếp trước chả phải lo mấy chuyện làm thịt cá thế này, đến cả cắt thành khúc cũng không phải lo, cứ đưa ra cửa hàng thủy sản là xong hết.

Lý nương tử ở cửa hàng vải vóc bên cạnh thấy Thẩm Thiều Quang xách cá thì hơi ngạc nhiên: “Loài cá nheo này béo thật! Chỉ là sợ nấu lên vẫn tanh mùi bùn!” Sau đó lại cười: “Thẩm cô nương khéo tay, đương nhiên nấu ra được mùi vị khác.”

Thẩm Thiều Quang chỉ cho nàng ta: “Lúc nấu thì cho thêm chút rượu chút gừng để khử tanh.”

Lý nương tử có thể xem là một người hâm mộ của Thẩm Thiều Quang, nghe được lời của Thẩm Thiều Quang thì như nhặt được của báu, vội hỏi: “Cho rượu gì? Cho bao nhiêu?”

Thẩm Thiều Quang dừng chân lại, đổi cá sang tay khác, hai con cá này cũng nặng lắm chứ chẳng đùa, xách một lát đã in hằn trên tay, sau đó nàng tiết lộ bí quyết nấu cá cho Lý nương tử: “Màng đen bên trong bụng cá phải xé cho sạch”, “Cả gừng và rượu đều cần”, “Cho thêm chút giấm chua nữa, khử tanh, cũng mau chín hơn”…

Lý nương tử gật đầu không ngừng, tiếc là không biết chữ, nếu không thì chắc chắn đã lấy sổ ra ghi chép lại rồi.

Cuối cùng cũng truyền thụ xong xuôi cho Lý nương tử, Thẩm Thiều Quang xách hai con cá tới cái hẻm nhỏ sau tiệm.

Biết Thẩm Thiều Quang không biết làm thịt cá, A Viên cầm một cái gậy gỗ: “Để ta!”

Thẩm Thiều Quang vội vàng tránh ra, nhường lại vị trí của mình cho nữ anh hùng.

A Viên tóm con cá, cầm gậy gỗ đập lên đầu nó.

Nhìn dáng vẻ như Võ Tòng đánh hổ, lại nhớ tới cảnh nàng ta một tay túm hai gã đàn ông say rượu, Thẩm Thiều Quang vội vàng kêu: “Đừng đánh nát!”

A Viên vội vàng thu lại sức lực trên tay, nào ngờ con cá kia lại tinh ranh như vậy, vận hết sức lực cuối cùng quẫy mạnh một cái, nhảy vọt qua đầu A Viên, khiến cả Thẩm Thiều Quang lẫn A Viên đều giật nảy mình.

Hai người bị dọa xong thì đều bật cười thành tiếng.

Thẩm Thiều Quang nói: “Thôi bỏ đi, cứ vứt bọn nó ở đây, ta không tin là ra khỏi nước rồi mà bọn nó vẫn không chết!”

A Viên không sợ như Thẩm Thiều Quang, bây giờ đã tìm được bí quyết, đặt con cá kia trên bàn đá xanh cạnh ang nước, cầm gậy gỗ đập hai cái, cá hoàn toàn không còn nhúc nhích nữa.

Thẩm Thiều Quang dựng ngón tay cái lên khen A Viên, A Viên cười đắc ý, cũng xử lý nốt con cá còn lại.

“Hai cái đầu cá hôm nay đều thuộc về ngươi!” Thẩm Thiều Quang cười nói. Hai người đều thích ăn đầu cá.

Cá nheo nhiều mỡ, thịt tinh mịn nhưng lại không đủ tươi ngọt, có lẫn mùi bùn đất, thích hợp để kho.

Thẩm Thiều Quang lấy một phần số cá mà A Viên đã xử lý xong xuôi lăn với bột súng rồi chiên giòn, một nồi khác thì cho dầu, đường, nước màu, sau đó cho cá, hành, gừng, hoa tiêu, hạt đậu khấu, lá thì là vào, lại cho thêm rượu, nước tương, giấm chua… làm món cá kho đơn giản mà phổ biến.

Nàng lại cắt cà thành từng khối to, chờ tới lúc sắp cạn nước thì cho vào cá – cái này do một anh hàng xóm người Đông Bắc chỉ cho: “Cá nheo hầm cà, ông già ăn chết no.”

Anh hàng xóm kia là một người rất sành ăn, thích nhất là mùa hè lái xe vào trong rừng bắt ve sầu về nhà rán ăn…

Cá nheo hầm cà có thể làm cho mấy ông già thời Đường chết vì no không thì chưa biết, nhưng quả thực là hương vị quá nồng đậm, lại thu hút một vị khách không mời: “Mùi này là cá hầm sao? Ta vừa vào cửa đã đoán ra rồi.”

Thẩm Thiều Quang cười: “Nghe mùi xuống ngựa, biết vị dừng xe.” Tam nương cũng coi như một người như vậy.

Thực ra cho dù là không nghe mùi không biết vị thì Lô tam nương vẫn thỉnh thoảng ghé qua, châm chọc Thẩm Thiều Quang vài câu, lại bị chọc ngược lại, lặp đi lặp lại không biết chán. Thẩm Thiều Quang cảm thấy bà chị này rất có tố chất thích bị ngược.

Nghe mùi mà tới không chỉ có Lô tam nương mà còn có hai vị khách quen đi ngang qua tiệm, đương nhiên cũng đặc biệt vào hỏi: “Hôm nay có bán cá sao?”

Thẩm Thiều Quang chỉ mua cả thảy hai con cá, lấy đâu ra nữa mà bán? Trong phường không có cửa hàng nào chuyên bán cá, hôm nay chỉ vừa khéo gặp được, chắc hẳn là người bán kia tự thả lưới hoặc tự câu được, nàng không thể đảm bảo được nguồn nguyên liệu thì đương nhiên không thể nào phát triển thành món ăn mới được.

“Cũng không phải món ăn mới. Nếu khách nhân cảm thấy tốt thì buổi chiều tới uống rượu ta mời một bát là được.” Thẩm Thiều Quang nói mấy câu khách sáo rất xuôi tai.

Người khách kia nghe vậy thì hiểu ra đây là người ta chỉ nấu cho nhà mình ăn, vội vàng từ chối: “Sao có thể thế được? Là bọn ta đường đột rồi!” Sau đó lại thật lòng kiến nghị: “Cô nương nên thêm món cá.”

Thẩm Thiều Quang cảm ơn hắn, người khách kia lại hỏi buổi chiều có phải vẫn còn thịt mã não không, xem ra là muốn đến uống vài chén.

Chờ khách đi rồi, Lô tam nương chậc chậc hai tiếng: “Cô nương nói chuyện vẫn rất khéo!”

Thẩm Thiều Quang lắc đầu thở dài: “Cái này cũng đâu phải là ta muốn đâu, trời sinh thông minh lanh lợi cũng đành chịu thôi.”

“…” Giữa thời đại này Lô tam nương không tài nào tiếp thu nổi cái cách nói chuyện mặt dày như vậy, nhếch miệng, quay sang quan sát tiệm ăn nhỏ của Thẩm Thiều Quang, từ bao giờ mà đã sắm thêm thảm kiểu người Hồ rồi? Một tấm cả mấy trăm văn, xem ra cửa tiệm này đúng là ăn nên làm ra!

Thẩm Thiều Quang đi vào bếp xem lửa, dặn A Viên mấy câu, quay lại thì thấy vẻ mặt ghen tị của Lô nương tử… Tốt thôi, rất đưa cơm, hôm nay nàng có thể ăn thêm một bát cá.

Đang nói chuyện thì một nữ nhân chừng bốn, năm mươi tuổi đi vào, mặt tròn vóc người đẫy đà, áo lụa màu tương, trên đầu cắm hai cây trâm bạc rất to, còn chưa nói chuyện đã cười vang: “Cô nương làm món canh thơm lắm!”

“…” Không phải chỉ là một nồi cá hầm thôi sao? Mọi người có cần tâng bốc nịnh nọt thế không? Thẩm Thiều Quang cảm thấy thật sự nên thêm món cá vào thực đơn thật rồi.

Tưởng rằng vị này cũng là nghe mùi mà tới, nào ngờ người ta tới là có ý đồ khác: “Báo cho cô nương một tin vui!”

Vừa rồi Lô tam nương nghe nữ nhân này khen “món canh thơm lắm” thì tưởng là tới mua đồ ăn, trong lòng càng buồn bực hơn, đang định quay mông đi, nghe nói “báo tin vui” thì lại ngồi xuống.

Thẩm Thiều Quang mời khách ngồi, cũng rót cho nàng ta một cốc sữa: “Không biết là tin vui từ đâu tới?”

“Ta họ Tương, là một bà mối, có người tới nhờ ta tới đề thân với cô nương.”

Con mắt Lô tam nương lại càng trợn tròn thêm.

Thẩm Thiều Quang cười nhíu mày: “Thế sao? Không biết là vị công tử nào?”

“Chính là Liễu lục sự Liễu công tử trong phủ Kinh Triệu.” Bà mối cười đáp.

“…” Hiếm có lúc Thẩm Thiều Quang bị nghẹn họng không đối đáp lại được, hóa ra vị huynh đệ này đúng là thầm mến nàng sao? Lại còn trịnh trọng mời bà mối tới?

Không nhớ kiếp trước từng nghe ai nói rằng “sự tôn trọng lớn nhất đối với một cô gái chính là kết hôn cùng cô ấy”, mặc dù hơi khập khiễng, nhưng vào thời này, với hoàn cảnh của Liễu Phong và nàng, đây đúng là vô cùng có thành ý.

Người ta đã tôn trọng mình thì mình cũng phải tôn trọng lại người ta, Thẩm Thiều Quang đang nghĩ xem nên đáp lại thế nào thì Lô tam nương túm lấy tay áo nàng: “Lục sự phủ Kinh Triệu này là ai?”

Thẩm Thiều Quang yên lặng, bà mối cười nói: “Ta nói cho cô nương biết gia thế của Liễu công tử. Liễu công tử là người Đặng Châu, ông nội từng là Nam Dương lệnh, gia đình dòng dõi, làm người đàng hoàng. Bây giờ trong nhà còn mẹ và một người đệ đệ, đều đang ở quê.”

Nói xong gia thế lại nói tới tình trạng cá nhân của Liễu Phong: “Liễu công tử năm nay hai lăm, năm kia thi đậu, qua kỳ kiểm tra khoa chế nhận chức lục sự hiện giờ. Con người trung hậu lại thông tri đạt lễ, nếu cô nương theo hắn thì đúng là khó mà chê được.”

Thẩm Thiều Quang gật đầu, đúng là rất tốt. Nếu trong nhà nàng chỉ đơn giản là sa sút, nàng không mang thân phận con gái của tội thần thì cứ vậy mà gả cho vị huynh đệ này rồi từ từ bồi dưỡng tình cảm, yên ổn sống qua ngày, sinh vài đứa con, nói không chừng kiếp này của nàng cứ thế mà thuận buồm xuôi gió giữa triều Đường.

Nhưng mà, hiện giờ… vẫn đừng nên liên lụy cho người khác thì hơn.

Thẩm Thiều Quang mỉm cười nói với bà mối: “Chuyện hôn nhân đại sự vẫn nên thận trọng, cho ta vài ngày suy nghĩ được không?”

Không thể ép người ta nhận lời ngay được, mà các cô nương trẻ tuổi thì luôn rụt rè, cho nên bà mối cười nói: “Đương nhiên là được rồi.”

Thẩm Thiều Quang lại cười nói: “Trong nhà cũng không còn cha mẹ, có một số việc chỉ có thể do ta dày mặt tự làm lấy. Ta có mấy lời muốn nói trực tiếp với Liễu công tử, nhờ nương tử thông báo giúp ta.”

Bà mối gật đầu, một cô nương xinh đẹp lại khôn khéo, nghe nói còn là con nhà dòng dõi, tiếc là trong nhà đã sa sút…

Tiễn bà mối đi rồi, Thẩm Thiều Quang quay đầu lại thì bắt gặp vẻ mặt tức tối bất bình của Lô tam nương.

“Cô nương không bằng lòng… chắc không phải là vì vị Liễu công tử này tướng mạo xấu xí chứ?” Lô tam nương lại đổi sắc mặt, vừa nghi ngờ vừa ghen tị. A Thẩm này có tài đức gì mà có thể có được một mối hôn nhân tốt như vậy? Chắc chắn là vì công tử kia xấu xí như quỷ!

Có thể là vì nghĩ tới tình trạng bi quan của mình trong chuyện hôn nhân, có thể là vì sắc mặt Lô tam nương quá rõ ràng, Thẩm Thiều Quang tức giận thật, lập tức nói mỉa mai: “Xấu thì không xấu, chính là người mỗi ngày mua bảy cái bánh rán mà Lô nương tử hay chê cười.”

Sắc mặt Lô tam nương lại thay đổi, vị công tử kia mặc quan phục xanh, mắt to mày rậm, đang độ trai tráng, hoàn toàn chẳng dính dáng gì tới hai chữ xấu xí!

“Nếu Lô tam nương nhìn trúng người ta làm con rể… Bà mối kia vẫn còn chưa đi xa, bây giờ đuổi theo vẫn còn kịp.”

Nói thế này rõ ràng là đang châm chọc nàng ta không tìm được một vị công tử tốt như vậy, lại tựa như nói là nàng không muốn, bảo nàng ta đi nhặt, Lô tam nương lại lần nữa bị Thẩm Thiều Quang làm cho tức giận đến nỗi không nói được lời nào, mãi một lúc lâu sau mới lên tiếng: “Cô nương đừng có kiêu ngạo quá! Ngươi có gì đáng giá mà kiêu ngạo thế chứ?”

Thẩm Thiều Quang nghĩ ngợi: “Có lẽ là tay nghề nấu nướng tốt, nhanh nhạy, kiếm được nhiều tiền?”

Lô tam nương bị nàng chọc cho tức giận, giậm chân đi về.

Thẩm Thiều Quang quay đầu dặn dò A Viên đang thái thịt: “Sau này mua quẩy thì tới hàng quẩy Trương gia ở phía nam phường mà mua!”

A Viên trả lời vô cùng sảng khoái: “Ta đã muốn đổi chỗ mua lâu lắm rồi!”

Thẩm Thiều Quang nghe nàng ta nói vậy thì không còn cáu nổi nữa, bực bội nói: “Quẩy nhà lão Trương chiên không đủ xốp giòn.”

Thẩm Thiều Quang trước giờ không chịu thua tiền bạc và cái ăn, lần này có thể coi như vì Lô tam nương mà phá lệ.

Buổi chiều, lúc khách khứa đã tan hết thì Liễu Phong tới.