Đăng trong Tiệm cơm nhỏ thành Trường An - Bánh Anh Đào

Tiệm cơm – Chương 24

Chương 24: Rút được một thẻ

Bùi Phỉ lại tới Lâm gia ăn chực cơm.

Bùi Phỉ và Lâm Yến vốn là đồng hương, gia thế cũng không hơn kém nhau bao nhiêu – đều có một cái họ tốt, cũng đều sa sút, chỉ khác ở chỗ Lâm thị thì cả nhà đều đã sụp, nhà Bùi Phỉ thì vẫn là cái cành khô nhỏ nhoi trên gốc đại thụ Bùi thị. Lúc ở Hà Đông hai người cùng học một trường, cùng nhau lập hội, cùng nhau đi thi, thái thú Bồ Châu là Thôi Tuân thấy hai người đều tuổi trẻ tài cao, phong tư nho nhã, từng gọi là “liên bích”.

* “Liên bích” nghĩa là ngọc liền chuỗi

Nhưng mà số làm quan của hai người lại kém nhau xa. Bùi Phỉ trước chịu tang ông, sau lại chịu tang cha, uổng phí liên tục mấy năm trời, rốt cuộc cũng tham gia kỳ thi của bộ Lễ và thi đậu, nhưng lại bị kẹt ở kỳ thi của bộ Lại, ba năm không được thụ quan. Mùa xuân năm nay rốt cuộc cũng thông qua kỳ thẩm xét, nhận chức hiệu thư lang cửu phẩm, mà lúc này Lâm Yến đã khoác áo quan đỏ tươi, làm đến thiếu doãn phủ Kinh Triệu.

Người so người ắt phải có người chết, hàng so hàng ắt phải có hàng vứt đi! Cũng may Bùi Phỉ thật đúng là lòng dạ rộng rãi, nếu không thật sự không cách nào tiếp tục chơi được với bạn cũ.

Bởi vì là bạn cũ thuở trước, lại là vãn bối, Bùi Phỉ và Lâm Yến cùng đón Tết Trung Thu với Giang thái phu nhân.

Trí nhớ của Giang thái phu nhân không tốt nhưng lại nhớ rõ Bùi Phỉ, gọi hắn là “thập nhị lang”, giống như là huynh đệ ruột với Lâm Yến được gọi là “đại lang”.

“Người một nhà” cùng nhau ngắm trăng uống rượu ở hậu viện.

Giang thái phu nhân bẻ một cái bánh dẻo nhân mứt táo chậm rãi ăn: “Mùi vị khá giống với bánh hoa hôm thất tịch.”

Lâm Yến mỉm cười, có đôi lúc trí nhớ của bà nội lại không sai đi đâu được.

Thái phu nhân thích ngọt thích mềm, rất hài lòng với bánh nhân táo, khuyên Bùi Phỉ và Lâm Yến: “Thập nhị lang, đại lang, các ngươi cũng nếm thử xem.”

Bùi Phỉ cười cầm một cái bánh nướng, đang muốn bẻ ra thì lại chú ý thấy chữ phía trên: “Quế lâm nhất chi, Côn Sơn phiến ngọc*.”

Mặt sau bánh cũng có chữ: “Cẩm tú tiền trình, cộng hạ nhất bôi**.”

* Nguyên văn trong “Tấn Thư”: “Quế lâm chi nhất chi, Côn Sơn chi phiến ngọc”. Nghe nói đề tên bảng vàng bắt nguồn từ câu này. [tác giả]

Giải thích: Phước Săn tự khoe mình với Vũ Đế: “Thần do quế lâm chi nhất chi, Côn Sơn chi phiến ngọc” (Thần như một cành độc nhất trong rừng quế, một phiến ngọc ở núi Côn Sơn – ý chỉ người đặc biệt cao quý hơn những người khác). Điển tích “cành trong rừng quế” được dùng trong nhiều bài thơ sau này với ý chỉ việc thi đậu.

** “Cẩm tú tiền trình” tức đường làm quan trải đầy gấm vóc, “cộng hạ nhất bôi” nghĩa là cùng uống một chén.

Đề tên bảng vàng, đúng là một câu chúc tốt lành. Quế cũng hợp với hoàn cảnh, đang Trung Thu mà.

Lâm Yến cũng lấy một cái, nhìn thấy mấy chữ phía trên thì hơi ngẩn ra, sau đó lại làm như không có chuyện gì, bẻ bánh ra cắn một miếng.

Bùi Phỉ tò mò muốn biết trên mấy cái bánh khác viết cái gì, bèn lấy một cái nữa, mặt trước là “Nguyệt thị cố hương minh*”, mặt còn lại là “Cộng kính viễn phương thân hữu nhất bôi**”.

* Trích “Nguyệt dạ ức xá đệ” (Đêm trăng nhớ em trai) của Đỗ Phủ, nghĩa là “trăng vẫn sáng nơi quê nhà”.

** “Cộng kính viễn phương thân hữu nhất bôi” ý là kính bạn bè nơi phương xa một chén.

Ôi chao, cũng rất là có ý nghĩa.

Tỳ nữ rót rượu bên cạnh cười nói: “Bánh ngọt này nghe nói được gọi là “bánh thẻ trung thu”, giống như thẻ ở trong miếu, dùng để chơi trong bữa tiệc.”

“Đây là chủ ý tinh quái của người nào?” Bùi Phỉ cười hỏi.

“Cái này… tỳ nữ cũng không biết, chỉ biết là mua từ bên ngoài.” Tỳ nữ cười đáp.

Bùi Phỉ rút được “thẻ tốt” thì không khỏi vui vẻ, liền hỏi Lâm Yến: “An Nhiên, thế trên bánh của ngươi viết cái gì?”

Lâm Yến lạnh nhạt đáp lại: “Không có gì, chẳng qua là hai câu cát tường mà thôi.”

Bùi Phỉ đã vươn tay lấy nửa bánh còn lại, mặt trên chỉ còn sót lại bốn chữ “giảo hề”, “liêu hề”, mặt còn lại thì là “giai phụ”, “nhất bôi”.

Bùi Phỉ cười thành tiếng, đưa nửa cái bánh còn lại cho Giang thái phu nhân: “Chúc mừng thái phu nhân, chắc hẳn chuyện tốt của An Nhiên sắp tới rồi. Chúng ta phải theo lời trên cái bánh này, cùng uống một chén mới được.”

Giang thái phu nhân rất thông thạo kinh thư, liếc mắt một cái đã nhìn ra đây là “Nguyệt xuất giảo hề, giảo nhân liêu hề”, vừa rồi đã nghe tỳ nữ giải thích, lại có lời của Bùi Phỉ, liền đoán ra nửa câu còn lại là “Tất đắc giai phụ”, thế là lập tức mỉm cười, vui vẻ nói với Lâm Yến: “Rất nên uống với nhau một chén!”

“Nguyệt xuất giảo hề, giảo nhân liêu hề” bắt nguồn từ Kinh Thi [tác giả]

Giải nghĩa: Trăng lên sáng đẹp, người đẹp yêu kiều.

“Tất đắc giai phụ, cộng ẩm nhất bôi” ý là ắt sẽ có vợ đẹp, cùng uống một chén.

Bùi Phỉ chớp mắt nhìn Giang thái phu nhân: “Vừa rồi An Nhiên còn muốn qua loa giấu giếm…”

Giang thái phu nhân giả vờ nghiêm khắc: “Nhất định phải uống.”

Đám tỳ nữ mặc dù không hiểu thi từ nhưng lại nghe hiểu cuộc nói chuyện của họ, đều cười rộ lên.

Lâm Yến nhếch miệng, cũng bất đắc dĩ phải nâng chén lên.

Uống một ngụm rượu, Giang thái phu nhân cũng tò mò cầm một cái bánh nướng lên, đọc chữ ở mặt trên: “Hải thượng sinh minh nguyệt, thiên nhai cộng thử thời“, mặt còn lại là “Gia thời gia yến, cử bôi cộng ẩm”.

* Trích “Vọng nguyệt hoài viễn” (Ngắm trăng nhớ người xa) của Trương Cửu Linh, nghĩa là “Trăng sáng mọc trên biển, lúc này soi chung cả chân trời”.

“Gia thời gia yến, cử bôi cộng ẩm” ý là cả nhà quây quần bên bữa tiệc, nâng chén cùng uống.

Giang thái phu nhân cười nói: “Rất hay! Rất hay! Hợp tình hợp cảnh!”

Lâm Yến và Bùi Phỉ đều nâng chén rượu lên, cùng kính Giang thái phu nhân.

Giang thái phu nhân đã có tuổi, uống vài hớp rượu, cũng không còn sớm nữa, liền về phòng nghỉ trước, lại không để cho các vãn bối tiễn: “Các ngươi cứ chơi phần các ngươi đi, ta có mấy người A Tố rồi.”

Lâm Yến và Bùi Phỉ chỉ tiễn tới cửa viện rồi vòng trở lại. Không có thái phu nhân ở đây, Bùi Phỉ càng tự tại hơn, bưng cả đĩa bánh thẻ trung thu đặt trước chân, lật từng cái một lên xem, rốt cuộc cũng biết nguồn gốc vận may của mình – cả đám “giải thẻ” trên này không có cái nào không tốt, nào là “đường làm quan rộng mở”, “phú quý bình an”, “tài cao độ lượng”…

Nếu chỉ như vậy thì không nói làm gì, người làm bánh này còn chơi trò đối đáp khôi hài, ví dụ như cái bánh này mặt trên viết “Cất chén mời trăng sáng, mình với bóng là ba*”, mấy chữ ở mặt sau lại là “Say rồi, đừng uống nữa”. Bùi Phỉ phun cả ngụm trà ra ngoài.

* Trích “Nguyệt hạ độc chước kỳ 1” (Một mình uống rượu dưới trăng – kỳ 1) của Lý Bạch, bản dịch của Nam Trân.

Lâm Yến cười, nhíu mày nhìn hắn.

Bùi Phỉ cười run cả tay, đưa cái bánh cho Lâm Yến xem.

Lâm Yến cũng nhịn không được, cười xong lại mím môi, một cô nương mà lại tinh ranh như vậy!

Thẩm Thiều Quang không biết là tính hài hước dí dỏm của mình bị người ta phỉ nhổ, vẫn đang bán bánh trung thu.

Rằm tháng bảy có hoa đăng, rằm tháng tám trong phường cũng treo đèn, người đi dạo cũng không ít, Thẩm Thiều Quang cho A Viên một ít tiền lẻ, cho nàng ta nghỉ, mình nàng canh giữ trong tiệm.

Hiện giờ Thẩm Ký đã nổi danh khắp phường, đặc biệt là đám tiểu hài tử thì lại càng quen thuộc hơn, đi dạo phố ngắm hoa đăng ngang qua đều làm nũng người lớn đòi vào trong tiệm mua bánh.

Cho dù trước kia có thấy bánh đắt quá đi chăng nữa thì bây giờ hơn phân nửa đều sẽ mua vài cái bánh – ăn tết mà, hơn nữa, nếu mua cả hộp thì tất nhiên là đắt, nhưng chỉ mua vài ba cái thì vẫn đủ sức mua.

Thẩm Thiều Quang vốn còn sợ sẽ ế hàng – thứ này qua ngày hôm nay thì phải chấp nhận bán phá giá thôi, một mặt là bánh này không để được lâu, mặt khác nữa là mấy thứ làm để phục vụ lễ tết thế này, hết lễ rồi thì không đáng giá tiền nữa. Không ngờ rằng bánh lại bán rất đắt hàng, chẳng mấy chốc đã gần hết sạch.

Thẩm Thiều Quang đặt mấy cái bánh nướng vào trong túi trước kia dùng để đựng bánh rán, đưa cho một cặp phu thê: “Ngài cầm lấy.” Nhận tiền ném vào trong rổ, ngẩng đầu lên, người đứng dưới tàng cây trước cửa không phải chính là Liễu công tử đấy sao?

Dạo này Liễu công tử mặc dù thường xuyên tới dùng cơm nhưng lại rất ít nói, đôi khi hình như còn lén nhìn nàng, Thẩm Thiều Quang nhìn sang, hắn lại dời mắt đi chỗ khác, đôi khi thì lại như muốn nói gì đó nhưng rồi lại không nói gì.

Thẩm Thiều Quang rất muốn giống như kiếp trước, tới nói đùa với hắn: “Hey, người anh em! Có phải cậu thầm mến tôi không đấy?” Nhưng suy cho cùng vẫn phải cân nhắc tới quan điểm thời đại nên không dám lỗ mãng.

Bây giờ lại gặp được vị này, hắn lại đứng yên lặng dưới tàng cây, thấy tình cảnh như vậy, Thẩm Thiều Quang cảm thấy rất bất đắc dĩ, nhưng cũng chỉ có thể cười cười với hắn.

Thẩm Thiều Quang thấy người ta giống như cảnh, Liễu Phong lại thấy Thẩm Thiều Quang giống như tranh.

Dưới ánh đèn bên khung cửa sổ, mỹ nhân phong nhã thướt tha, ánh mắt tràn ngập hy vọng, nụ cười tươi rói, hẳn rằng Thường Nga cũng chỉ đẹp tới như thế mà thôi?

 

 

 

Đăng trong Tiệm cơm nhỏ thành Trường An - Bánh Anh Đào

Tiệm cơm – Chương 23

Chương 23: Bánh trung thu ngũ nhân

* Bánh trung thu ngũ nhân là loại bánh trung thu nổi tiếng nhất và được xem là bánh trung thu truyền thống, với năm loại “nhân” là hạnh nhân, đào nhân (nhân hạt đào), hoa sinh nhân (hạt lạc), ma nhân (hạt gai) và qua tử nhân (hạt dưa).

Chu quản gia đập đập cửa tiệm ăn nhỏ.

Thẩm Thiều Quang ngẩng đầu lên, thấy là một ông già tuổi chừng năm mươi, vẻ mặt hiền hậu, phía sau còn có hai tên nô bộc trẻ tuổi đi theo. Thẩm Thiều Quang cười nói: “Lão trượng mời vào. Lão trượng tới uống rượu hay là mua gì thế?”

Chu quản gia cười đáp: “Cô nương, chủ nhân nhà ta muốn đặt chút bánh ngọt Trung Thu.”

Mấy hôm nay Thẩm Thiều Quang bận rộn làm món mới, bận rộn chỉnh sửa quán, không nhận ra thời gian trôi vùn vụt, chẳng mấy chốc nữa đã tới Trung Thu. Mồng bảy tháng bảy bán bánh hoa lời được không ít tiền, đương nhiên Thẩm Thiều Quang sẽ không bỏ qua một dịp tốt để kiếm tiền như Trung Thu.

Nói là “bánh trung thu” nhưng thực ra ở thời này còn chưa có tên gọi như vậy. Thời này, mười lăm tháng tám cũng là dịp để toàn gia đoàn viên, ngắm trăng, uống rượu làm thơ, nhưng Tết Trung Thu còn chưa phát triển thành tết “bánh trung thu”, còn từ bao giờ mà có cái tên bánh trung thu, từ bao giờ nó trở thành “thứ không thể thiếu của mọi nhà” thì Thẩm Thiều Quang không biết.

Thẩm Thiều Quang thích cái cũ, dựa theo hình dạng bánh trung thu ở thời hiện đại để làm bánh nướng và bánh dẻo trung thu, nhân bánh thì chọn đậu sa, hoa quế, mè đen, trứng muối, còn cả “ngũ nhân” bị cả mạng xã hội hiện đại chê bai.

Từ nhỏ Thẩm Thiều Quang đã nằm trong nhóm “ghét ngũ nhân”, ghét nhất là ăn bánh trung thu ngũ nhân với mấy sợi mứt xanh xanh đỏ đỏ, cảm thấy ông bà tổ tiên tạo ra thứ bánh này là không muốn để cho đám trẻ con được ăn tết ngon lành, thật đúng là một loại nguyên liệu “hắc ám”.

Mãi cho tới khi học cấp hai, ăn được bánh trung thu ngũ nhân do nhà của một bạn học tự làm, ôi trời ơi, không phải là bánh ngũ nhân không ngon mà là mình không được ăn bánh ngon! Độ ngọt vừa phải, nhân hạt thông, hạt đào, hạt lạc các loại vừa mềm vừa thơm, ăn không khô nghẹn mà cũng không gây ngán, không có vị gắt, mà quan trọng nhất là không có mấy sợi mứt xanh đỏ.

Sau nữa thì đọc Hồng lâu mộng, thấy trong đó miêu tả “nhân bánh trung thu làm từ hạt dưa hạt thông”, đoán chừng có lẽ đây là mô phỏng công thức làm bánh trung thu ngũ nhân ở trong cung. Kẻ giàu sang cả đời như Giả mẫu không chê bai thì hẳn là ăn rất ngon – chắc hẳn là trong nhân cũng không có mấy sợi mứt xanh đỏ.

Lại sau đó nữa, đọc được thực đơn của người từng thưởng thức nhiều mỹ thực là Viên Mai, Thẩm Thiều Quang đã hoàn toàn không còn ghét bánh trung thu ngũ nhân nữa, còn chỉ ước gì có mấy cái để nếm thử.

Kiếp trước không có cơ hội tự làm, đương nhiên là bây giờ phải làm rồi.

Thực ra làm bánh ngũ nhân cũng rất đơn giản, Thẩm Thiều Quang phân tích, kiếp trước ăn bánh trung thu ngũ nhân thấy không ngon chủ yếu vẫn là do nguyên liệu làm nhân bánh không chính xác, thậm chí là không tươi mới, đặc biệt là có những cái đã bày bán rất nhiều ngày, ăn vào sao có thể không hại dạ dày?

Thế nên Thẩm Thiều Quang hết sức chú ý đến khoản chọn nhân, tới cửa hàng bán hạt khô ở Tây Thị chọn mua hạt thông, hạt đào, hạt hạnh nhân, hạt gai, hạt dẻ loại tốt nhất, lại nhờ người ta xay thành bột. Phần còn lại làm rất đơn giản, thêm đường, thêm mỡ lợn, bọc vỏ bánh, ấn vào khuôn, đưa đi nướng. Nướng xong thì tự nếm thử một cái trước, cảm thấy cũng không tệ, nhưng lại không đủ để nói là ngon đến mức khiến người ta kinh ngạc.

Lại thử đổi thành vỏ bánh dẻo, nào ngờ cùng một loại nhân bánh, thế mà mùi vị vượt lên hẳn mấy lần! Cái được Viên Mai gọi là “ngọt mà không ngấy, lỏng mà không dai” chính là thế này đúng không? Hẳn là vậy rồi!

Thẩm Thiều Quang hài lòng với ngũ nhân, cũng vừa ý các loại nhân bánh khác, một lòng dự định mượn bánh trung thu để kiếm về một khoản lời to nữa. Bởi đã có món bánh hoa thất tịch trước đó cho nên lần này không cần Thẩm Thiều Quang phải quảng cáo thì đã có không ít khách quen tới mua.

Thẩm Thiều Quang không biết Chu quản gia là nô bộc nhà nào, chỉ cười hỏi: “Lão trượng muốn đặt bao nhiêu? Đặt làm loại nào?” Nàng lại chỉ vào hàng mẫu, giới thiệu các loại khẩu vị, màu sắc và hoa văn, bởi vì hình dạng bánh khác nhau nên có cảm giác như chủng loại cũng đa dạng hơn.

Đã lâu rồi Chu quản gia không làm mấy chuyện lặt vặt như chọn mua hàng thế này, thực sự không biết một cửa tiệm nho nhỏ mà bánh ngọt lại có nhiều màu sắc hoa văn như vậy, nhưng Chu quản gia là người rành việc, chỉ nghĩ ngợi một chút, liền cười nói: “Ngoài loại để nhà mình ăn thì phần còn lại cứ mua cả hộp “cẩm tú đoàn viên” này là được rồi. Lấy loại vỏ nướng, nếu không đi tặng cho người ta bị vỡ ra thì không tốt. Của nhà bọn ta thì…”

Chu quản gia hơi trầm ngâm: “Lấy loại vỏ bánh dẻo đi, mỗi loại nhân bánh lấy một hộp. Thái phu nhân nhà ta tuổi đã lớn, thích ăn mềm. Hoa văn thì không quan trọng, a lang nhà ta không để ý mấy cái này.”

Thẩm Thiều Quang gật đầu, xem ra chủ nhân nhà bọn họ là người hiếu thuận, cũng dễ nói chuyện, cho nên nô bộc trong nhà mua đồ chỉ suy xét tới khẩu vị của lão thái thái, nhưng mà đây là ăn tết mà… Thẩm Thiều Quang vẫn kiến nghị: “Tiệm ta mới ra một bộ bánh thẻ trung thu, dành riêng cho tiệc trung thu của các hộ quyền quý, biết đâu lang quân hay nương tử trong nhà thích?”

“Mặt trên mỗi chiếc bánh có một câu thơ cũ, mặt còn lại là giải thẻ, chẳng qua là trò chơi, để mọi người dự tiệc có thêm chút thú vui.” Thẩm Thiều Quang lật một cái bánh cho hắn xem.

* Trò chơi rút thăm bánh trung thu lấy linh cảm từ Hồng lâu mộng [tác giả]

Chu quản gia là nô bộc trong nhà quyền quý, cũng từng đọc sách, hỏi thử mấy câu, quả nhiên đều là ý may mắn cát tường, thế là cười nói: “Cái này thú vị, lấy một hộp đi.” A lang nhà mình cả ngày tẻ nhạt lãnh đạm, không giống người trẻ tuổi chút nào, rất nên vui đùa một chút.

Thẩm Thiều Quang cười viết thêm một khoản nữa, đến phần tên khách thì hỏi: “Xin hỏi lão trượng, chủ nhân nhà ngươi xưng hô thế nào?”

“Chính là Lâm thiếu doãn trong phường chúng ta.”

Thẩm Thiều Quang nhướng mày, cười một cái, cúi đầu viết: “Được.”

Chu quản gia không biết tại sao a lang lại chỉ tên muốn mua bánh ngọt của tiệm này, đoán có lẽ là vì mùi vị ngon, thái phu nhân rất thích ngọc tiêm diện của tiệm này – dù rằng có lần ăn rồi bị đau bụng.

Quay trở lại phủ, Chu quản gia tới thư phòng bẩm báo chủ nhân.

Lâm Yến gật đầu, nói một tiếng “vất vả rồi”, sau đó không nói gì nữa.

Chu quản gia lui ra ngoài, người theo hầu Lâm Yến là Lưu Thường đang đứng phía sau thì lại bắt đầu suy nghĩ.

Lưu Thường ngày ngày đều theo chủ nhân ra ngoài. Hắn luôn cảm thấy cách a lang nhà mình đối xử với Thẩm cô nương này không bình thường, chưa nói chuyện khác, nói tới lần đầu tiên đi, a lang bảo mình tới cửa phường mua bánh rán, mua rồi, a lang lại không ăn…

Lại nói tới hai ngày trước, a lang đi qua tiệm ăn Thẩm Ký, bảo hắn đi mua đậu hoa lan và sư tử đầu, a lang hiếm khi ăn bên ngoài, sao biết được trong tiệm này có bán cái gì?

Đúng lúc nhìn thấy cô nương kia “thông minh hạ gục kẻ vô lại”, đi tới bẩm báo với a lang, a lang lập tức bảo đi tìm phường đinh, xe cũng không đi nữa, cứ đứng chờ bên đường. Chút chuyện nhỏ này cần gì phải như vậy?

Thẩm vấn hai tên vô lại kia, biết là có dính líu tới quán rượu Vân Lai, mà quán rượu Vân Lai lại là của Triệu Vương, a lang liền bảo Chu quản gia gióng trống khua chiêng đi đặt bánh trung thu…

Lưu Thường cảm thấy trong này ắt có chuyện! Chắc chắn là có chuyện!

23 tết trung thu

 

 

 

Đăng trong Tiệm cơm nhỏ thành Trường An - Bánh Anh Đào

Tiệm cơm – Chương 22

Chương 22: Gặp phải kẻ vô lại

Thẩm Thiều Quang cầm cái nhíp, nheo mắt ngồi xổm bên cạnh ang nước sau tiệm, tìm nhổ lông trên thủ lợn.

Ở thời đại này, thịt lợn vốn không phải thứ gì cao cấp thượng đẳng, mà mấy bộ phận như đầu lợn thì lại càng là thứ hèn mọn, nhưng mà Thẩm Thiều Quang lại cứ yêu cái thứ hèn mọn này.

Lúc còn bé, gần nhà nàng có một cửa hàng thịt xông khói, bán các loại thịt lợn, lạp xưởng, gà xông khói, thỉnh thoảng còn bán thịt bò kho. Từ nhỏ Thẩm Thiều Quang đã thích ăn thịt, người lớn trong nhà cho chút tiền tiêu vặt, ngoài việc mua mấy thứ đồ lặt vặt mà các bé gái đều yêu thích thì mùa hè đều cống hiến hết cho tiệm đồ uống lạnh, mùa đông thì tiêu hết ở cửa hàng thịt cạnh nhà này.

Thẩm Thiều Quang không thích thịt bò kho, cứ cảm thấy không đủ tinh tế, dễ bị kẹt trong kẽ răng mà cũng không đủ thơm; gà xông khói thì bán nguyên con, chút tiền tiêu vặt của con nít mua không nổi, vì vậy chỉ còn sót lại thịt lợn và lạp xưởng là có thể mua được. Trong số đó, Thẩm Thiều Quang thích nhất là thịt lợn.

Thịt lợn của cửa hàng này được ướp với nước sốt rồi mới xông khói, không có cảm giác dính dấp, có chút mùi cháy sém thơm một cách lạ lùng.

Trên đường tan học về, Thẩm Thiều Quang sẽ mua một cái bánh nướng trước tiên – bánh vừa ra lò, xé ra còn bốc hơi nóng , sau đó tới cửa hàng mua một miếng thịt lợn nhỏ, nhờ chủ cửa hàng cắt miếng thịt thành lát rồi nhét vào giữa bánh nướng, sau đó dùng hai tay cầm bánh, há miệng ra thật lớn cắn cả bánh lẫn thịt.

Vừa ăn vừa chạy khắp phố cùng đám bạn, hoặc là tìm chỗ nào đó chơi nhảy dây, ném bao cát, tới khi trời tối mịt mới về tới nhà, bị bố mẹ lải nhải, vội vội vàng vàng ăn cơm rồi làm bài tập đánh răng rửa mặt đi ngủ…

Sau này Thẩm Thiều Quang tốt nghiệp rồi lăn lộn trong giới mỹ thực, ăn qua vô số tác phẩm xuất sắc của các đầu bếp nổi tiếng khắp từ bắc chí nam, nhưng trong lòng vẫn nhớ mãi cửa hàng thịt lợn kia, mỗi lần về quê đều sẽ ghé thăm, thậm chí còn từng có ý định viết một bài quảng cáo cho cửa hàng đồ ăn của dì chủ, cũng muốn biết là dì ấy xông thịt thế nào mà có mùi hương không giống những cửa hàng khác.

Nhưng rồi cứ lần lần lữa lữa, mãi cho tới một lần ghé thăm thì phát hiện cửa hàng đó đã bị gộp vào cửa hàng tạp hóa ngay bên cạnh, biến thành một đại lý lớn, nghe nói dì chủ cửa hàng thịt kia đã theo con trai ra nước ngoài định cư, thế là câu hỏi về cách xông thịt lợn mãi mãi trở thành câu hỏi không có đáp án.

Thẩm Thiều Quang nhìn từng đám từng đám mây trắng giữa nền trời xanh thẳm, thở hắt ra một hơi dài, cúi đầu tiếp tục xử lý thủ lợn. Mặc dù không biết cách xông khói nhưng Thẩm Thiều Quang lại làm được món thịt lợn hầm nước tương không tệ, thịt màu đỏ rực, nước tương thơm nồng đậm đà, nấu chín lên rồi thì mùi vị không chê vào đâu được – chỉ là quá trình làm hơi phiền phức.

Thẩm Thiều Quang cố ý cho hàng thịt thêm một chút tiền, để người ta để ý làm lông sạch hơn một chút, nhưng kể cả như vậy thì vẫn không yên tâm lắm, mua về vẫn phải tự mình kiểm tra lại lần nữa. Nếu như để cho khách đang ăn thì phát hiện ra mấy sợi lông… Thế này thì đúng là muốn nôn luôn.

Nhưng không ngờ rằng dù đã cẩn thận như vậy nhưng vẫn xảy ra chuyện.

Mặt trời vẫn còn treo trên cao, trống chiều vừa điểm thì có hai vị khách lạ mặt vào tiệm, một mặc áo lụa tơ tằm màu lam, một mặc áo vải màu nâu, đều mũi cao mắt sâu, tóc xoăn tít, là hai vị khách người Hồ.

Thành Trường An này lắm người Hồ, Thẩm Thiều Quang không để ý lắm, cười nói một tiếng, bảo bọn họ tùy ý chọn chỗ ngồi.

Hai người kia gọi món thịt mã não nổi danh của quán, thêm sư tử đầu, móng lợn, thịt lợn hầm, đều là món mặn, lại gọi thêm ba giác rượu.

Một giác là bốn thăng, công tử như Lâm thiếu doãn chỉ uống có một thăng, thế mà hai vị này lại muốn uống hẳn mười hai thăng.

Mở tiệm cơm thì không sợ kẻ bụng bự, Thẩm Thiều Quang nhanh tay nhanh chân chuẩn bị, để A Viên bưng khay tới.

Khách tới ăn cơm càng lúc càng nhiều, chẳng mấy chốc trong tiệm đã kín chỗ, có người ăn xong rồi đi, lại có khách khác tới, có người ở đây uống rượu, có người chỉ tới để mua ngọc tiêm diện hoặc thịt về ăn, trong tiệm vô cùng náo nhiệt.

Đột nhiên vang lên tiếng la hét ầm ĩ.

Thẩm Thiều Quang bỏ dở việc trong tay, đi tới xem thế nào.

Là hai người Hồ gọi một lúc ba giác rượu kia, chỉ vào khay đồ ăn, nói: “Trong thịt có tóc! Các người làm không sạch!”

Mặc dù luôn tự nhận là sạch sẽ, lúc làm đồ ăn đều mang tạp dề bao tay, đầu đội khăn vải, A Viên cũng chú ý, nhưng ngộ nhỡ thì sao? Thẩm Thiều Quang đi lên, cười làm lành, hỏi: “Khách nhân đừng sốt ruột, không biết là cái gì không sạch sẽ?”

Tên người Hồ mặc áo lam nheo mắt nhìn Thẩm Thiều Quang, khóe môi hơi nhếch lên, dùng tay chỉ vào đĩa thịt mã não: “Chính là cái này.”

Thịt trong đĩa đã ăn sạch, chỉ còn lại một chút nước thịt, trong nước thịt đúng là có một sợi tóc.

Khách còn lại trong quán phần đông đều không ăn nữa, quay đầu sang hoặc là vây tới xem.

Tên người Hồ mặc áo lam ợ một cái, hơi rượu xông khắp mặt Thẩm Thiều Quang: “Thế nào hả? Cô nương?”

Thịt mã não đều được gắp từ trong hũ ra đĩa ngay trước khi bưng lên cho khách, để tạo màu đỏ bắt mắt, cũng để tăng thêm mùi vị thì chan thêm một muôi nước thịt. Trải qua quá trình thế này, nếu trong đĩa còn có tóc thì chỉ trừ phi Thẩm Thiều Quang và A Viên đều bị mù.

Nhìn nhìn số đồ ăn đã vơi đi bảy, tám phần, rượu cũng đã uống hết, Thẩm Thiều Quang liền hiểu ra, đây là ăn uống no nê rồi muốn bắt lỗi để quỵt tiền đây mà…

Tên người Hồ kia vẫn còn chưa chịu buông tha: “Cô nương phải nói rõ ràng cho bọn ta, nếu không bọn ta sẽ đi ra ngoài làm ầm chuyện này lên…” Lại nhìn thực khách xung quanh, nói: “Mọi người nói xem thế nào?”

Lập tức có người nhíu mày lại, quay đầu nhìn cái đĩa của mình, cũng có người nhìn Thẩm Thiều Quang.

A Viên vội la lên: “Không thể nào! Tiệm bọn ta là sạch sẽ nhất, sao có thể có tóc được?”

Tên người Hồ mặc áo vải trừng mắt: “Vậy ngươi nói xem tóc trong đĩa này là thế nào?”

Thẩm Thiều Quang nhìn kĩ sợi tóc kia, cười nói: “Các vị khách nhân chớ nóng ruột, rốt cuộc sợi tóc này ở đâu ra thì xem ta làm ảo thuật một cái là biết ngay thôi.”

Vừa nghe nói tới trò hấp dẫn, mấy người đang kiểm tra đĩa của mình cũng không kiểm tra nữa, đều xúm lại nhìn Thẩm Thiều Quang.

“Đi lấy hai cái bát sứ màu trắng tới, một cái đựng nước sạch, lấy thêm một đôi đũa trúc, một ít bột đậu tắm* và một cái khăn sạch màu trắng.” Thẩm Thiều Quang dặn bảo A Viên.

* Thời cổ đại, người ta dùng bột đậu trộn với thuốc để rửa tay, rửa mặt và tắm thay cho xà phòng.

A Viên lên tiếng trả lời, nhanh chóng lấy đồ tới.

Tất cả mọi người nhìn Thẩm Thiều Quang không chớp mắt.

Thẩm Thiều Quang có thể làm gì? Chỉ là rửa sạch sợi tóc kia mà thôi.

Bắt chước dáng vẻ của mấy ảo thuật gia, cái gì cũng để mọi người tự kiểm tra xác nhận trước một lượt, Thẩm Thiều Quang dùng bột đậu tắm để chà sợi tóc rồi cho vào nước, lại nhẹ nhàng dùng khăn vải lau sạch nước, đặt vào cái bát không còn lại.

“Mọi người có thể nhìn ra manh mối gì rồi?” Thẩm Thiều Quang cười hỏi.

Có người mắt vụng nhìn không ra cái gì, đây chẳng phải chỉ là một sợi tóc sao? Cũng có người mắt tinh: “Xoăn xoăn, lại còn hơi vàng! Đây là tóc người Hồ!”

Sợi tóc kia ở lẫn trong nước thịt thì nhìn không rõ ràng, nhưng rửa sạch rồi thì hiện nguyên hình.

Mọi người quan sát hai tên người Hồ kia, lại nhìn tóc của Thẩm Thiều Quang và A Viên, rồi lại đối chiếu với sợi tóc trong bát, cho dù có đần độn chậm hiểu cỡ nào cũng cũng nhận ra, đây là đang bới lông tìm vết để quỵt tiền!

“Tại sao màu vàng thì là của bọn ta?” Tên người Hồ mặc áo vải vội la lên.

Một vị khách nói đầy ẩn ý: “Đúng vậy, cũng có thể là của con mèo con chó.”

Mọi người sửng sốt, lập tức đều nhìn hai tên người Hồ kia, cười ầm lên.

Hai người kia vốn đã say, bị mọi người cùng chĩa mũi dùi, lại thấy Thẩm Thiều Quang chỉ là một nữ tử yếu đuối thì dứt khoát giở trò vô lại: “Cơm canh của các người không sạch sẽ, còn vu oan cho bọn ta!” Nói xong thì muốn hất đổ bàn.

Cũng may là bàn dài, lại cố định trên tường, đương nhiên là không hất đổ được.

Lập tức có khách dám làm việc nghĩa muốn bước tới chế phục bọn họ, nhưng A Viên đã nhanh hơn một bước, đi tới túm tóc tên áo lam, tay còn lại thì níu cổ áo tên áo vải, hai người kia không kịp phòng bị, bị nha đầu mập túm cho lảo đảo.

Hai người kia còn muốn giãy giụa nhưng đã bị A Viên bắt được chỗ hiểm, mà quả thật là cũng đã uống hơi nhiều, làm sao tránh thoát ra được?

Mọi người không hẹn mà cùng lui về sau, mở đường cho A Viên, người vốn muốn giúp một tay cũng ngượng ngùng rụt tay về.

Thẩm Thiều Quang chỉ giỏi võ miệng, vừa rồi thấy bọn hắn động thủ thì quả thật hơi lo, bây giờ đã bình tĩnh trở lại: “Lôi ra ngoài đi!”

Đang nhốn nháo ngoài cửa thì phường đinh tới.

Thẩm Thiều Quang đi lên kể rõ sự tình, mọi người cũng giải thích giúp, mấy phường đinh lôi hai tên vô lại vẫn đang hùng hùng hổ hổ đi.

Nhân lúc mọi người còn chưa giải tán, Thẩm Thiều Quang vội vàng đề phòng cho lần sau bị vu oan hãm hại tương tự như vừa rồi – tự phủi sạch cho mình, nói rõ ràng chuyện này, sau này có bị vu oan giá họa như thế cũng không có ai tin nữa.

Trước hết là báo rõ: “Ngài nói mà xem, nếu không phải người Hồ, tóc vừa vàng vừa quăn, mà là một tên vô lại bắt con ruồi con bọ ném vào trong đĩa đồ ăn thì chậu nước bẩn hôm nay rửa sao cho sạch được?”

Mọi người gật đầu, quả thật là như vậy.

Lại trần tình: “Trong quán, cho dù vào lúc nóng nhất, ta và tỳ nữ cũng mặc tạp dề che chắn kín người, các vị cũng có thể tới trong tiệm xem, bọn ta có sạch sẽ không?”

Đám khách quen đều gật đầu, điểm này đúng là không thể nghi ngờ.

Lại giả bộ đáng thương: “Một nữ tử lưu lạc tới nơi này, may được hàng xóm trong phường để mắt tới, bán chút bánh ngọt rau xanh, không ngờ lại gặp phải chuyện thế này…”

Mọi người bắt đầu thấy thông cảm, đúng là Thẩm cô nương này không dễ dàng gì.

Một người nô bộc áo xám đi tới trước chiếc xe ngựa đậu bên dưới tàng cây gần đó, thấp giọng bẩm báo: “Hồi bẩm công tử, đã đánh tiếng bảo bọn họ thẩm vấn tỉ mỉ.”

Lâm Yến liếc mắt nhìn Thẩm Thiều Quang với dáng vẻ dịu dàng đáng thương ở trước cửa tiệm.

“Đa tạ các vị tinh mắt, giúp ta phân rõ đúng sai…” Thẩm Thiều Quang khẽ khom lưng cảm tạ mọi người.

Mọi người tuy rằng chỉ là khán giả “chứng kiến kỳ tích”, nhưng lúc này lại có cảm giác như thể mình cũng tham gia vào hoạt động bắt kẻ vô lại, giúp đỡ cô nương đáng thương này, đều rối rít đáp lễ.

“Công tử, có mua sư tử đầu và đậu hoa lan nữa không?”

Lâm Yến buông rèm che xuống, đáp lại: “Không mua nữa, đi thôi.”

 

 

 

Đăng trong Tiệm cơm nhỏ thành Trường An - Bánh Anh Đào

Tiệm cơm – Chương 21

Chương 21: Quán ăn cũng bán rượu

Thẩm Thiều Quang dẫn thợ mộc tới đo đạc trong quán, vắt óc tìm cách tận dụng hết giá trị của hơn mười thước vuông này.

Mấy chiếc bàn vốn dùng để bày đồ ăn, Thẩm Thiều Quang đột nhiên nghĩ tới kiếp trước từng đọc được trên diễn đàn về kiểu thiết kế dùng quầy bar thay thế cho bàn ăn trong các căn hộ nhỏ, nàng đi bộ ước lượng một vòng, quyết định để thợ mộc làm mấy cái bàn dài gắn liền với tường, khá giống với quầy bar ở thời hiện đại nhưng thấp hơn một chút.

Chỗ ngồi đã có rồi, nhưng nếu ghế ngồi bày khắp nơi thì e là sẽ trông rất lộn xộn, thế là trải chiếu tre trên nền nhà, đổi ghế xếp thành đệm cói. Giá nến, chậu hoa trang trí các kiểu có thể treo lên tường thì đều treo hết lên tường.

Cũng không phải công trình gì to tát, chỉ vài ba ngày là đã thu xếp xong xuôi. Tường trắng, bàn gỗ dài gắn liền với hai mặt tường, hai cái bàn ăn ngắn hơn đặt ở giữa, dài ngắn đan xen thành ra lại không hề có vẻ chen chúc chật chội. Nền nhà trải chiếu tre màu nâu, đệm cói màu vàng nhạt, một mặt tường khảm thêm một giá đỡ, trên đó bày mấy bình sứ trắng, trong bình trồng phong lan, hoa nhài các loại, tường trắng nền nâu lại thêm một chút xanh, thế mà trông cũng rất có cảm giác nghệ thuật – có lẽ mặt tường bên kia cũng có thể treo vài bức tranh chữ, hoặc là để trắng thế cũng được.

A Viên gật đầu: “Nếu như lớn hơn chút nữa thì tốt hơn.”

Thẩm Thiều Quang cắn răng, ấn lên đầu nha đầu ngốc kia một cái, bản lĩnh chọc vào chỗ không nên chọc càng lúc càng điêu luyện.

Nàng lại lập chí, ngày nào đó, ta phải mở một quán rượu lớn nhất thành Trường An này, quán rượu sẽ rộng mấy trăm thước vuông, chia làm mười mấy gian, đại sảnh sẽ có một khoảng rộng chuyên biểu diễn tạp kỹ, nuốt đao, chui vòng lửa, ca vũ, múa kiếm, không thể thiếu cái nào hết.

“Cô nương, cho ta một lồng thang bao!”

“Được được!” Thẩm Thiều Quang cao giọng đáp lại, lấy thang bao đặt vào khay mang đến cho khách, thu một ít tiền lẻ ném vào trong rổ.

Xoay vòng với mấy đồng tiền lẻ, thế mà bà chủ Thẩm cũng không bị chóng mặt.

Tốt xấu gì thì bây giờ trong tiệm cũng đã có chỗ cho người ta ngồi xuống uống chén rượu rồi.

Tới xưởng chưng cất rượu mua rượu, lấy thịt mã não, sư tử đầu làm món chính, lại thêm các loại đồ nhắm như rau trộn, cá khô chiên, đậu hoa lan, thủ lợn kho nước tương, chân giò hầm, thế là tiệm ăn kiêm quán rượu Thẩm Ký cũng coi như bắt đầu buôn bán.

Khách rất ủng hộ quán rượu nhỏ gọn này của Thẩm Thiều Quang, vừa sạch sẽ lại có phần mộc mạc, quan trọng nhất là không cần cầm đĩa thịt viên, thịt mã não đi khắp nơi tìm chỗ uống rượu nữa.

Ăn đồ ăn của Thẩm Ký lại cảm thấy, chà, tuyệt thật!

Nói về tay nghề của Thẩm cô nương thì đúng là tốt thật, bánh rán thì nóng sốt lại sạch sẽ, ngọc tiêm diện và bánh hoa thì đúng là tinh xảo, có nét giống đồ ăn trong cung. Thịt mã não, sư tử đầu cũng vậy, có thể tính vào “mỹ thực lạ và quý”. Không ngờ rằng đồ ăn sáng vốn dĩ rất bình thường mà cũng có thể làm được tốt đến vậy.

“Chủ quán, thêm một đĩa cá khô chiên nữa!”

A Viên nhanh chân lấy đồ ăn.

“Cô nương, sao cá khô chiên nhà ngươi lại thơm thế?”

“Cái này… nô tỳ không biết.” A Viên cười ngây ngô: “Nếu ngon thì lang quân ăn thêm một chút đi.” Quả thực rất giống Thẩm Thiều Quang lúc bị hỏi một câu tương tự thì trả lời là “Nếu thích thì tới đây mua, cớ gì phải tự mình vất vả.”

Thẩm Thiều Quang đang gói ngọc tiêm diện trong bếp nghe vậy thì cười, thực ra cũng không có bí quyết gì, chẳng qua là lúc ướp cá thì bỏ thêm cơm rượu nếp mà thôi – mùa hè muối một hũ như vậy, thế là có thêm cả mùi thơm của rượu nếp, lúc chiên thì chiên hai lần, lần đầu chiên chín kĩ, lần sau thì chiên với bơ bằng lửa lớn, chỉ như thế mà thôi.

Thẩm Thiều Quang thì thích đậu hoa lan chiên hơn. Trước luộc sau chiên, vừa mềm vừa thơm, khiến Thẩm Thiều Quang nhớ tới món lạc mà nàng thích ở kiếp trước.

Đây cũng là một nỗi tiếc nuối khôn nguôi khác của Thẩm Thiều Quang ngoài ớt – phải mấy trăm năm nữa, tới thời nhà Minh thì hạt lạc mới được truyền tới Trung Quốc. Có người nói đại tài tử Kim Thánh Thán trước lúc bị tử hình đã nói “Đậu phụ chiên nhai cùng lạc có mùi vị như chân giò hun khói”, Trương Ái Linh thì thích “ngồi ghế mây ăn lạc rang muối”, mà hai vị tiên sinh Lỗ Tấn, Lão Xá thì thích vừa đọc sách vừa ăn hạt lạc.

* Kim Thánh Thán, tên thật Kim Vị, là một nhà văn, nhà phê bình văn học theo lối ấn tượng của Trung Quốc, được người đời sau mệnh danh là “Vua của thể loại văn bạch thoại Trung Quốc”.

* Lão Xá, nguyên danh Thư Khánh Xuân, tự Xá Dư, là một văn sĩ Trung Hoa

* Có người nói rằng lạc được truyền vào Trung Quốc từ rất sớm, ở đây tạm thời dùng cách nói cũ – lạc xuất xứ từ Châu Mỹ, truyền vào Trung Quốc từ thời nhà Minh. [tác giả]

Có thể thấy tình cảm của đám văn nhân đối với lạc đúng là chân ái. Thẩm Thiều Quang cũng yêu mến lạc tự đáy lòng – nhưng điều này không cản trở nàng trong lúc không có lạc thì nhâm nhi đậu hoa lan để đỡ thèm. Thẩm Thiều Quang cảm thấy hành vi này của mình có điểm giống hình tượng mấy tên đàn ông cặn bã trong lòng đã có người thương nhưng vẫn không bỏ lỡ việc tìm bạn gái khác.

Nhưng không ngờ rằng, Lâm thiếu doãn – người thâm tình “trong lòng đã có người thương quyết không tìm bạn gái khác” – đi vào, hơn nữa món đầu tiên hắn gọi lại chính là đậu hoa lan này.

Trong đầu Thẩm Thiều Quang đang nghĩ tới vấn đề hình tượng của hai người, vô tình nhìn về phía bàn tay Lâm Yến đang chỉ vào bảng tên đồ ăn, ngón tay thon dài, khớp xương rõ ràng, thực sự là một đôi bàn tay đẹp!

“Chủ quán?” Lâm Yến nhíu mày.

“Đậu này lấy tên hoa lan là bởi vì sau khi chiên lên sẽ có hình dạng giống bông hoa lan mới nở.” Thẩm Thiều Quang bình tĩnh dời tầm mắt ra khỏi đôi bàn tay hắn, mỉm cười trả lời Lâm Yến.

Lâm Yến gật đầu, lại gọi thêm rau trộn, trứng muối, tai lợn hầm tương, tất cả đều là mấy món ăn phổ biến trong dân gian.

Đại khái là mỗi người đều có chút thói hư tật xấu, thấy một thứ tốt đẹp thì cứ muốn phá hỏng một chút, ví dụ như Thẩm Thiều Quang thì mong được chứng kiến vị công tử phong độ ưu nhã này làm một chuyện gì đó không ưu nhã: “Công tử có muốn nếm thử món móng lợn của quán bọn ta không? Ăn nóng thì vừa thơm vừa mềm, ăn nguội thì dai dai, rất hợp để nhắm rượu.”

Lâm Yến nhìn Thẩm Thiều Quang.

Thẩm Thiều Quang cười híp mắt, hơi khom người, tư thế niềm nở.

“Không cần, chỉ những thứ này thôi.” Lâm Yến trả lại danh sách món ăn cho Thẩm Thiều Quang.

Thẩm Thiều Quang hơi tiếc nuối nhận lấy, hôm nay không thể chứng kiến “phó thị trưởng” Trường An gặm móng lợn, không sao cả, còn lâu dài mà, sau này sẽ có chân gà, chân dê các loại…

Lâm Yến hồi tưởng lại tờ thực đơn được làm từ giấy hoa vừa rồi, chữ khải nho nhỏ, trông không giống kiểu viết của tiểu thư khuê các bình thường mà lại có đôi phần tương tự thể chữ sấu thời trước, chữ “Thẩm” trên túi bánh rán và trên bảng quảng cáo trước cửa là bởi vì dùng kiểu chữ triện nên lại càng rõ ràng hơn.

Lâm Yến không khỏi nghiêng đầu nhìn chủ quán đang bận rộn bên kia, đôi mắt híp lại, khóe miệng cong cong, dáng vẻ đầy hứng khởi, hoàn toàn cách xa chữ “phong nhã”, lại nghĩ tới mấy lần gặp nhau lần nào nàng cũng miệng lưỡi xảo quyệt, lời lẽ đanh đá!

Thẩm Thiều Quang đâu biết mình bị người ta vùi dập, còn hỏi: “Khách nhân làm một bát rượu cho ấm người không?”

Lại hỏi: “Ngọc tiêm diện đã hết, hay là ta làm cho lang quân bát bánh canh rau?”

Lâm Yến thu tầm mắt lại: “Cũng được.”

Vị Lâm thiếu doãn này tới muộn, không còn khách nào khác nữa, Thẩm Thiều Quang có thể chuẩn bị thoải mái. Vào giờ cơm thì dù rượu và đồ ăn đã được chuẩn bị sẵn, lại có thêm A Viên giúp đỡ, hai người vẫn vô cùng bận bịu.

Thẩm Thiều Quang vừa bưng đồ ăn vừa ghi chú thêm một mục nữa vào sự nghiệp lý tưởng của mình – sau này phải có một đội ngũ đầu bếp, còn phải thuê trăm tám chục nhân viên phục vụ!

 

 

Đăng trong Tiệm cơm nhỏ thành Trường An - Bánh Anh Đào

Tiệm cơm – Chương 20

Chương 20: Lại thêm sư tử đầu

Quán rượu Vân Lai là quán rượu lớn nhất trong phường Sùng Hiền, có thể chứa tới hơn trăm vị khách, bày biện lộng lẫy, lại có hồ cơ xướng khúc và uống rượu cùng, mặc dù không bằng được các quán rượu lớn nổi danh ở Đông Thị Tây Thị nhưng thế cũng đã là rất khá rồi.

Việc làm ăn của quán rượu Vân Lai vẫn luôn rất tốt, nhưng gần đây chưởng quỹ lại hơi bực bội. Mấy ngày nay thường có khách mang theo đồ ăn bên ngoài đến đây uống rượu.

Thực ra các quán rượu không bao giờ cấm mang theo đồ ăn bên ngoài, thỉnh thoảng có khách săn được nhạn hay hươu gì đó, sợ trong nhà nấu không đủ ngon thì cũng mang ra quán nhờ nấu hộ, trong quán đều vui vẻ đón nhận.

Đương nhiên cũng có những vị khách có khẩu vị đặc biệt, thỉnh thoảng mang theo các loại đồ nhắm như đậu phụ chiên hay cá muối tới, người trong quán thấy vậy cũng chỉ cười cười, còn chuẩn bị đĩa giúp, khách cũng chỉ ăn có từng đó mà thôi, còn có thể làm gì khác?

Nhưng dạo này lại thường xuyên có khách bưng mấy đĩa sứ trắng nho nhỏ tới, trong đĩa hoặc là hai miếng thịt đỏ mọng trơn bóng, hoặc là một viên thịt to chừng nắm tay, khách vào quán là gọi luôn “Lấy thìa canh tới.” Viên thịt non mềm như vậy không thể dùng đũa kẹp, chỉ có thể dùng thìa để múc.

Mà đâu phải chỉ có một vài vị khách như vậy, cho nên không thể không khiến chưởng quỹ chú ý. Mà khiến người ta xấu hổ hơn là, đồ ăn gọi trong quán còn dư lại không ít, mà đồ ăn trong mấy đĩa sứ nhỏ kia thì luôn hết sạch, thậm chí ngay cả nước thịt cũng chan hết vào trong bát cơm.

Sao lại có thể như vậy chứ!

Chưởng quỹ hỏi thăm thì nghe nói là mua từ tiệm ăn Thẩm Ký ở trong phường. Thẩm Ký thì chủ quán biết, chủ tiệm là một cô nương xinh đẹp, làm bánh ngọt và ngọc tiêm diện rất ngon.

Đợt lễ vừa rồi chưởng quỹ còn sai người tới tiệm đó mua bánh hoa về làm quà tặng cơ mà. Món bánh đó quả thực là tinh xảo, có những màu sắc và hoa văn mà kể cả xưởng bánh ngọt ở Đông Thị Tây Thị cũng không có.

Chỉ là không biết sao lại bán cả thịt nữa?

Thời này tiệm bán đồ ăn và quán rượu thường phân biệt rạch ròi, tiệm bán đồ ăn thì chuyên bán các loại thực phẩm từ gạo và bột mì như bánh nướng, bánh hấp, bánh nếp, bánh bột, thậm chí không ít cửa hàng chỉ bán bữa sáng, quán rượu thì gần trưa mới bắt đầu buôn bán, bán rượu và đồ ăn, cũng có bán cơm, nhưng không lấy mì làm chủ.

Đối với hành vi bán thịt vi phạm quy tắc của cửa hàng đồ ăn, đặc biệt là việc khách còn đưa tới quán rượu khiến quán rượu “mất mặt”, chưởng quỹ quán rượu Vân Lai hơi không vui, nhưng lại không thể nổi giận với khách, mà với cô nương chủ tiệm Thẩm Ký thì… Thôi vậy, sai người đi mua một chút về nếm thử.

Quả thật là! Chưởng quỹ quán rượu Vân Lai cũng phải thừa nhận là quả thực rất ngon. Từ trước tới giờ chưa thấy ai có thể dùng thịt lợn mà làm ra món ngon như vậy, non mịn đậm đà lại không ngấy, vẻ bề ngoài cũng đẹp mắt, hoàn toàn có thể đặt lên bàn tiệc lớn.

Chưởng quỹ quán rượu Vân Lai bảo đầu bếp trong quán làm theo, nhưng mà có những bí quyết mà nếu không ai tiết lộ cho, tự mình tìm tòi thì không thể nào tìm ra được. Đầu bếp trong quán làm thế nào cũng cứ thấy thiếu thiếu một chút gì đó.

Thẩm Thiều Quang vẫn còn chưa biết mình phạm vào điều cấm kỵ trong nghề, làm ngứa mắt người khác, nàng đang chỉ đạo A Viên thái thịt làm sư tử đầu.

Thịt làm sư tử đầu khá cầu kỳ, nạc năm phần mỡ năm phần, hoặc là bốn sáu, sáu bốn, Uông Tằng Kỳ tiên sinh từng nói có thể bảy phần mỡ ba phần nạc, mà Lương Thực Thu lão tiên sinh lại cho rằng “ba phần nạc bảy phần mỡ” là thích hợp nhất, Thẩm Thiều Quang thì thuộc phái trung dung, cho rằng “nửa nạc nửa mỡ” như lời một người từng thưởng thức nhiều đồ ngon như Viên Mai là tốt nhất.

* Uông Tằng Kỳ là một nhà văn Trung Quốc đương đại, nổi tiếng với thể loại truyện ngắn và tiểu luận. Ông được coi là một người kế thừa của các nhà văn trường học Bắc Kinh.

* Lương Thực Thu là một nhà giáo dục, nhà văn, dịch giả, nhà lý luận văn học và nhà từ điển học nổi tiếng.

* Viên Mai là một họa sĩ và nhà thơ Trung Quốc thời nhà Thanh.

* Cách làm sư tử đầu tham khảo trên mạng, đối chiếu với tác phẩm của hai vị Lương Thực Thu, Uông Tằng Kỳ. [tác giả]

Việc cắt thì lại càng phức tạp hơn, trước hết phải loại bỏ gân, sau đó lần lượt là thái hạt lựu rồi băm nhỏ – quá trình này quan trọng nhất là “thái nhiều băm ít”. Nếu thái ra lớn quá, hoặc là băm nát thịt thì đều không được.

A Viên thái thịt không tệ, sức lực lớn, lại có lòng kiên trì, mà mấu chốt là… nàng ta rất có hứng thú. Qua một thời gian nữa thì hẳn cũng có thể trở thành một đầu bếp tốt.

Thái xong thịt, phần việc còn lại do Thẩm Thiều Quang phụ trách. Tay nàng dính một chút bột súng, vo thịt lại thành từng viên tròn to – trong thịt không thể bỏ thêm bột súng, nếu không thì ăn vào sẽ thấy dính – sau đó cho vào nồi chần sơ để tạo hình, lại chưng cách thủy thêm một canh giờ.

Sư tử đầu làm như thế này sẽ mang lại cảm giác non mềm như đậu phụ.

Trời dần chuyển lạnh, lại bởi vì tiệm ăn của mình chật hẹp, không có chỗ cho thực khách ngồi ăn, cho nên Thẩm Thiều Quang chủ yếu bán những món chưng nóng hổi như thế này – đương nhiên cũng là bởi vì mấy món này là những món nổi tiếng ở thời hiện đại, đã trải qua sự thử nghiệm cả hàng trăm năm, sẽ dễ nổi tiếng hơn.

Có thịt mã não, sư tử đầu, Thẩm Thiều Quang lại nghĩ có nên thêm món gà trong niêu nữa không, lại nghĩ mấy hôm tới trời lạnh hơn chút nữa là có thể làm món chân giò hun khói rồi. Tới lúc đó làm chân giò chân khói chưng cách thủy với đậu phụ và cải thảo, vịt chưng cá chưng, hoặc là chân giò hun khói nấu mật… Chậc chậc!

Những món chưng cách thủy thơm mềm như vậy không chỉ phù hợp với thời tiết mà còn rất hợp với khẩu vị của người lớn tuổi – ví dụ như thượng thư bộ Lễ Lý Duyệt ở phường Diên Khang.

Lý Duyệt tuổi đã tầm sáu mươi, mười mấy năm trước từng làm thượng thư bộ Lễ, sau bị giáng chức tới Giang Nam làm thứ sử hai nhiệm kỳ, năm ngoái mới trở về, tiếp tục đảm nhiệm vị trí thượng thư lúc trước, đợt vừa rồi lại thêm chức đồng bình chương sự, triều đình có bốn vị tể tướng thì hắn là một vị trong số đó.

* Đồng bình chương sự là tên gọi tắt của Đồng trung thư môn hạ bình chương sự, là cách gọi chức tể tướng từ đời Đường Huyền Tông

Lý lão tướng là một người vô cùng văn nhã, nghe nói trước kia cũng từng rất cấp tiến, đắc tội không ít kẻ quyền quý, chìm chìm nổi nổi trong giới quan trường, về sau tính tình càng lúc càng ôn hòa điềm tĩnh, không còn màng danh lợi, gửi gắm tình cảm vào núi non, thơ ca, rượu thịt.

Phường Diên Khang ở ngay bên cạnh phường Sùng Hiền, nô bộc trong nhà Lý lão tướng vì sở thích của chủ nhân mà thường xuyên tìm kiếm món ngon khắp nơi, sau đó thì tìm tới chỗ Thẩm Thiều Quang.

Từ ngọc tiêm diện đến các loại bánh hoa rồi thịt mã não, tới món sư tử đầu mới ra, tất cả đều rất hợp khẩu vị của Lý lão tướng. Nô bộc trong nhà Lý lão tướng càng ngày càng thường xuyên phải chạy sang phường Sùng Hiền, kể cả trong nhà đãi khách thì cũng phải có thịt viên và đĩa thịt của tiệm ăn Thẩm Ký bày trên bàn tiệc.

Lý tướng công còn cố ý giới thiệu, có thể thấy là hắn thật sự cảm thấy rất ngon: “Thọ Nhân, An Nhiên, nếm thử món thịt mã não này đi.”

Bạch phủ doãn phủ Kinh Triệu bàn về tuổi tác thì chỉ nhỏ hơn Lý Duyệt mấy tuổi, bàn về chức quan thì cũng chỉ kém một phẩm, thế nhưng lại rất cung kính vị tướng công này, lập tức nếm thử, cười gật đầu: “Đỏ như màu mã não, cho vào miệng lại thơm lừng, tên này đặt hay lắm! Đồ ăn nhà tướng công quả đúng là tuyệt không thể tả.”

Lý tướng công cười nói: “Cũng không phải của đầu bếp nhà ta. Hai vị nếm thử thêm món sư tử đầu này nữa.”

Còn chưa ăn, Bạch phủ doãn đã mỉm cười: “Cái tên thật là oai phong!” Nói xong lại theo Lý Duyệt dùng thìa canh múc một viên cho vào miệng, vẻ mặt hết sức kinh ngạc: “Thật là non mềm!”

Lý tướng công lại hỏi Lâm Yến: “An Nhiên cảm thấy thế nào?”

Lâm Yến mỉm cười đáp: “Hạ quan cũng cảm thấy rất tốt.”

“Đây là mua từ một tiệm ăn ở trong phường các ngươi đấy. An Nhiên chưa từng ăn sao?”

Lâm Yến cầm khăn lau miệng: “Quả thật chưa từng ăn.” Tinh xảo thế này… Nói ra lại có điểm giống ngọc tiêm diện và thang bao.

Bạch phủ doãn cười nói: “Sùng Hiền lắm mỹ thực! Trong nha môn bọn ta, đám trẻ tuổi sáng nào cũng ăn bánh rán trứng gà của phường Sùng Hiền, ta từng nếm thử, quả thật mùi vị rất được.”

Lý tướng công cười nhìn Lâm Yến, chọc ghẹo: “Thật sự không tưởng tượng ra được dáng vẻ An Nhiên gặm bánh rán là như thế nào.”

Lâm Yến cong cong khóe miệng, nhưng cũng không giải thích gì.

Bạch phủ doãn lại cười nói: “An Nhiên thì không nằm trong nhóm này. Làm việc cùng nhau lâu như thế rồi mà hạ quan còn chưa nhìn thấy An Nhiên hấp ta hấp tấp bao giờ.”

Lý tướng công khẽ thở dài: “Tác phong của An Nhiên thật là giống…” Đột nhiên lại ngưng lại, uống một hớp rượu để che đậy việc mình lỡ lời, cười nói: “Không ngại để Đào Nhụy múa một đoạn “Xuân oanh chuyển”, Xuân Nô gảy tỳ bà, đền đáp ơn cứu mạng của hai vị chứ?”

Hai tỳ nữ của Lý Duyệt là Đào Nhụy, Xuân Nô đi Khúc Giang du ngoạn thì ngựa bị mất cương, vừa may có mấy tên nha sai của phủ Kinh Triệu gặp được cứu giúp, hôm nay Lý tướng công vì chuyện này mà đặc biệt bày tiệc cảm tạ.

Hai nữ nhân bước ra, cảm tạ ơn cứu mạng của hai vị quan viên phủ Kinh Triệu – dù rằng lúc đó bọn họ vốn không có mặt, sau đó thì bắt đầu ca múa.

Có rượu có nhạc, há có thể không có thi từ?

“Mặt phấn mày ngài, hương môi một điểm, sắc son hồng… Hoa cài buông rủ, vòng eo yểu điệu, dáng thướt tha…”

Lâm Yến vừa nghe thơ của hai vị cấp trên vừa nhấp một hớp rượu, ăn hết đĩa thịt mã não, sao lại có cảm giác như hai vị kia đang vịnh miếng thịt này nhỉ?

 

 

 

Đăng trong Tiệm cơm nhỏ thành Trường An - Bánh Anh Đào

Tiệm cơm – Chương 19

Chương 19: Thưởng thức thịt mã não nóng sốt

Nếu so với thịt đông pha thì thực ra ở kiếp trước, Thẩm Thiều Quang thích món thịt kho tàu hơn – cũng không có lý do gì đặc biệt, chẳng qua là bớt việc mà thôi.

Kiếp này Thẩm Thiều Quang đã kiên nhẫn hơn không ít, vội vàng làm gì chứ? Vội vội vàng vàng chạy về phía trước, y như cá hồi di trú, vội vã đi học, vội vã tốt nghiệp, vội vã kiếm tiền, vội vã yêu đương, vội vã kết hôn, vội vã sinh con, sau đó vội vã già đi, vội vã chết sao? Hay là như bản thân nàng, còn chưa kịp vội vã xong từng ấy việc đã “bùm” một cái xuyên tới thế giới khác, tất cả nỗ lực trước đó đều biến về con số không, lại bắt đầu lại từ đầu!

Thẩm Thiều Quang vừa cảm khái thế sự vô thường vừa đặt vỉ trúc vào đáy cái nồi đất để đề phòng bị cháy, trên vỉ đặt hành, gừng cắt lát, sau đó đặt từng miếng thịt ba chỉ đã được chần qua nước nóng để làm sạch máu loãng lên trên, lại cho thêm nước tương, đường và rượu. Rượu là rượu mới, có một chút bọt khí hơi xanh – hẳn là “lục nghị tân phôi tửu” của Lão Bạch. Nghĩ thế lại cảm thấy dường như cả nồi thịt lợn này cũng trở nên đầy ý thơ.

* Trích “Vấn Lưu thập cửu” của Bạch Cư Dị, nghĩa là: rượu lục nghị mới chưng cất xong.

Dùng lửa nhỏ để hầm nồi thịt lợn đầy ý thơ này, để thế cho thịt mềm.

Thẩm Thiều Quang trộn bột cạnh một cái lò khác, chờ khách tới mua bánh rán bữa sáng.

A Viên đã đưa sữa đậu nành từ tiệm tào phớ về, vừa vào đến cửa đã bảo ngay là “thơm”.

Đổ sữa đậu nành vào trong cái nồi to, đặt nồi lên kiềng nhóm lửa, thấy lửa đã bén, A Viên liền đi tới bếp bên này, loay hoay quanh nồi thịt hầm, khụt khịt không ngừng, sao lại thơm thế?

Thẩm Thiều Quang cười, nếu dùng thêm ớt để hầm thì hương vị còn nức mũi hơn nữa, thế chẳng phải là nha đầu ngốc này sẽ chui vào trong nồi luôn sao?

Cũng phải nói, ớt thật đúng là một loại nguyên liệu thần kỳ, lúc nó được kết hợp với thịt thì thực sự có thể tạo nên hiệu ứng mùi vị một cộng một bằng mười – vô cùng thơm. Cho nên ở thời hiện đại đồ cay Tứ Xuyên rất được ưa chuộng cũng là có đạo lý của nó. Đáng tiếc là ở thời đại này còn chưa có ớt, đây đúng là một nỗi tiếc nuối khôn nguôi.

Cũng không chỉ mỗi mình A Viên thèm, các thực khách khác cũng men theo mùi mà nhìn sang, người quen còn hỏi thăm: “Cô nương đang làm món gì mà thơm thế?”

Không thể nói ra đại danh của Đông Pha tiên sinh được, cho nên Thẩm Thiều Quang bèn dùng phương pháp đặt tên cho các món trong hoàng cung để đặt một cái tên cho nó – thịt mã não.

Một cái tên hoa lệ khí thế như vậy, mùi hương hấp dẫn như vậy, khiến cho các thực khách càng thấy ngứa ngáy trong bụng.

Thẩm Thiều Quang cười nói: “Đây là một món làm rất tốn công, phải đợi thêm một lát nữa mới được. Tới bữa trưa hoặc bữa chiều đến mua thì tốt hơn. Thịt này mùi vị đậm đà tinh tế, để nhắm rượu hay để ăn với cơm đều rất thích hợp.”

Các thực khách không thể làm gì hơn là tạm thời nhẫn nại, chỉ riêng mùi thịt đã khiến người ta ăn nhiều bánh rán hơn. Bánh ngọt và cháo cũng bán được nhiều hơn hẳn ngày thường, Thẩm Thiều Quang đột nhiên nhận ra, có phải vừa sáng sớm mình đã nhả độc rồi không?

Bán xong bữa sáng, dọn dẹp sạch sẽ, thịt cũng đã hầm xong, nhưng mà vẫn chưa thể tính là hoàn thành, còn phải chưng lên nữa.

Chưng cái này cũng đòi hỏi cao, tốt nhất là đặt trong hũ kín chưng cách thủy, đây cũng là phương pháp chưng thịt trước giờ ở trong cung, ý tứ là “không gần nước”, chỉ cần dính hơi nước thôi là đã mất mùi.

Chưng như thế tầm hai khắc, món thịt đã xong xuôi.

Không sớm cũng chẳng muộn, không có khách, nhân lúc này, Thẩm Thiều Quang gọi A Viên tới nếm thử trước.

Gắp ra bốn miếng từ trong hũ, đặt vào giữa cái đĩa trắng như tuyết, để mặt da ngửa lên trên, rưới lên đĩa một muôi nước thịt, khoan nói cái khác, với màu đỏ mọng trơn bóng này, quả thật cái tên thịt mã não được đặt rất chuẩn.

Thẩm Thiều Quang lại nhanh tay nhanh chân xào một ít rau xanh, hai người cứ thế ăn cùng với cháo, nhanh chóng dùng trước bữa trưa.

Thẩm Thiều Quang gắp một miếng thịt đặt vào trong bát, chậm rãi thưởng thức.

Có lẽ là ở thời đại này rượu là rượu gạo chân chính, hoặc cũng có thể là vì lợn không ăn thức ăn gia súc nên chậm lớn, vì vậy thịt ngon hơn, đương nhiên cũng có thể là vì đã lâu không được thưởng thức mùi vị này, trong lòng nhớ nhung, nói chung là Thẩm Thiều Quang cảm thấy thịt này còn ngon hơn cả trong mấy nhà hàng nổi tiếng ở kiếp trước – thật sự đúng là béo mà không ngấy, thơm ngon mềm nhũn.

Dù vậy, Thẩm Thiều Quang cũng chỉ ăn một miếng rồi thôi không ăn nữa – một miếng cũng không nhỏ, to gần bằng nắm tay.

Ba miếng còn lại đều thuộc về A Viên. Nhưng không ngờ rằng A Viên ăn một lúc rồi lại đột nhiên bật khóc.

Thẩm Thiều Quang móc khăn ra cho nha đầu ngốc lau nước mắt, lau nước thịt dính bên khóe miệng, thế này là làm sao?

A Viên thút tha thút thít, ngượng ngùng nhìn cô nương nhà mình: “Ăn, ăn ngon quá.”

“…” Thì ra “ăn ngon tới bật khóc” không phải chỉ là nói quá?

Làm một đầu bếp, có thể được người ăn đánh giá như vậy, Thẩm Thiều Quang thấy vừa mừng vừa lo: “Nếu ngươi thích ăn thì sau này chúng ta thường xuyên làm.”

A Viên lại càng khóc dữ hơn: “Trước kia mỗi bữa chỉ có thể ăn một bát cháo ngô loãng với một cái bánh kê, không ngờ rằng lại có thể có ngày hôm nay, hu hu…”

Thì ra là đang cảm khái cuộc đời, Thẩm Thiều Quang xoa xoa đầu nàng ta, thở dài: “Ăn đi, chỉ cần không có loạn lạc thì chúng ta sẽ không cần phải chịu khổ nữa.”

Buổi trưa, lúc bán thang bao, Thẩm Thiều Quang cũng bày món thịt nóng hổi ra, chỉ riêng vẻ ngoài và mùi thơm đã hấp dẫn bao nhiêu thực khách chú ý tới.

Món ngọc tiêm diện trong tiệm cũng rất thơm, cắn một miếng nước canh chảy ra, nhưng nói sao thì nước canh cũng được bọc kín trong lớp vỏ bánh, so với món thịt mã não này thì vẫn còn khiêm tốn lắm, món thịt này cứ thế mà phô bày cả dáng vẻ lẫn mùi hương trước bao người, kích thích cả miệng cả mũi người ta.

Nếu bảo Thẩm Thiều Quang ví von một chút thì nàng sẽ ví ngọc tiêm diện như một mỹ nữ mặc đồ mốt, còn thịt mã não thì là… mỹ nữ ở trần*! Ở trước mặt nàng, thanh tao cao nhã gì đó vốn chẳng đáng quan tâm.

* Cách so sánh lấy cảm hứng từ “Hỉ Bảo” của Diệc Thư, trong đó so sánh tiền mặt với phụ nữ ở trần. [tác giả]

Thịt này không cần Thẩm Thiều Quang phải chào bán gì, huống hồ có người đã nhớ nhung từ sáng, chẳng mấy chốc đã bán hết sạch.

Buổi chiều nàng lại làm một nồi nữa, bữa chiều cũng bán hết.

Tình hình thử nghiệm thực sự còn tốt hơn nhiều so với dự đoán của nàng. Thẩm Thiều Quang vốn cho rằng trong phường nhiều người giàu có và quyền quý, cũng không phải không ăn nổi thịt dê, trước kia làm thang bao là nhờ nước canh mới lạ, mà quả thực thịt lợn cũng thích hợp để làm nhân bánh hơn thịt dê, cho nên mới được nhiều người đón nhận như vậy, muốn mở rộng các món ăn từ thịt lợn chắc chắn không dễ dàng như thế.

19 thịt lát

Hơn nữa ở thời này mọi người ăn thịt lợn chủ yếu đều là chưng, sau đó kẹp với tỏi băm nhuyễn hoặc chấm các loại nước tương, gần tương tự với món thịt cắt lát ở thời hiện đại. Nàng làm món thịt lợn đậm đà này chưa chắc đã hợp với khẩu vị của mọi người.

Bây giờ xem ra, bách tính Đại Đường của chúng ta thật ra là thuộc “trường phái ăn ngon là được”?

Thẩm Thiều Quang đi sắm thêm nồi đất cỡ lớn nhất, định bụng phát triển món thịt mã não này đã.

Lại lấy tấm ván gỗ trước kia dùng để quảng cáo bánh hoa ra treo ngoài cửa, trên đó viết mấy chữ to “Thưởng thức thịt mã não nóng sốt”. Nàng dự định là sau này không cất tấm ván này nữa, để đó làm bảng thông báo món ăn.

Thẩm Thiều Quang quay đầu nhìn tiệm ăn nhỏ của mình, thấy hơi tiếc nuối, tiếc là nơi này nhỏ quá, chỉ có thể làm thành tiệm bán cơm, nếu lớn hơn chút nữa, có thể để khách tụm ba tụm năm ngồi thành nhóm thì có thể đổi từ quán ăn thành quán rượu, bán các loại đồ ăn, lại bán thêm rượu, vậy thì lợi nhuận sẽ cao hơn nhiều.

Sốt ruột không ăn được thịt mã não, thôi thì cứ từ từ vậy.

 

 

Đăng trong Tiệm cơm nhỏ thành Trường An - Bánh Anh Đào

Tiệm cơm – Chương 18

Chương 18: Tu La tràng trên phố hoa đăng

“Cô nương, cô nương, ngươi nhìn cả loạt đèn chim nhạn kìa! Gió thổi qua một cái trông y như nhạn bay thật ấy.”

“Đèn hoa sen này còn to hơn cả ở trong am Quang Minh.”

“Cô nương, cô nương, cái này là phượng hoàng sao?” A Viên vui vẻ ríu ra rít rít bên tai Thẩm Thiều Quang. Có thể thấy là không phải không thích nói chuyện, chẳng qua là trước kia bị đè nén mà thôi, bây giờ tính cách càng ngày càng hoạt bát.

Thẩm Thiều Quang tỉ mỉ xem cái đèn kia, lại tỉ mỉ nhìn A Viên, bé con à, ánh mắt của ngươi… Phượng hoàng trong truyền thuyết là một loại sinh vật xinh đẹp sặc sỡ cỡ nào cơ chứ.

“Đây là đà điểu, từng có sứ giả Thổ Hỏa La cống tặng cho hoàng thượng. Nó đi lại rất nhanh, không biết bay.” Thẩm Thiều Quang nói.

* Thổ Hỏa La (tiếng Anh: Tocharians) là một bộ tộc người gốc Ấn – Âu, vốn sống ở một vùng thuộc Tân Cương.

A Viên chợt bừng tỉnh: “Ta còn tưởng là phượng hoàng ăn nhiều bị mập.”

Phượng hoàng ăn nhiều bị mập… Ăn nhiều bị mập… Thẩm Thiều Quang nghẹn lời.

Phía sau có tiếng phì cười, Thẩm Thiều Quang và A Viên quay đầu lại, là vị Liễu công tử kia.

Thẩm Thiều Quang cười, cúi người chào hắn.

Liễu Phong thu lại nụ cười vừa rồi, đàng hoàng đáp lễ lại.

Từ hôm đó sau khi tặng quà khai trương xong, mấy ngày liên tục vị Liễu công tử này không tới tiệm ăn, sau rồi lại cứ như lệ thường đi mua bữa sáng hộ, dần dần buổi tối cũng thỉnh thoảng tới ăn thang bao. Lúc nàng bán bánh hoa Thất Tịch, vị huynh đệ này còn đặt mấy hộp, khiến Thẩm Thiều Quang cũng thấy lo thay cho hầu bao của hắn. Một chức quan cửu phẩm, mỗi tháng chỉ được hơn một vạn văn tiền, thật sự không đủ cho ngươi ăn kiểu đó đâu.

Bây giờ mỗi tháng Thẩm Thiều Quang cũng có thể kiếm được hơn một vạn văn tiền, đây là còn chưa tính đến tiền lời từ bánh hoa Thất Tịch cung không đủ cầu – bánh hoa bán có mấy ngày mà kiếm được số tiền lời gần bằng lợi nhuận một tháng. Thẩm Thiều Quang kiếm tiền nhiều lại tiêu tiền ít, đúng là thần giữ của, cho nên gặp phải kiểu thanh niên tiêu tiền thoải mái thế này thì không khỏi nổi lên tấm lòng từ bi của người mẹ mà lo thay cho hắn.

“Tên ngốc” được lo lắng còn cười nói: “Đầu phố có đèn kéo quân, cô nương có thể tới ngắm xem.”

Thẩm Thiều Quang dè dặt gật đầu, lại cúi người cáo từ, dẫn A Viên đi dạo tiếp. Nào ngờ vị Liễu công tử kia lại dẫn tôi tớ đi theo ở xa xa phía sau, dường như có ý hộ tống, lại giống như chỉ là thuận đường.

Thẩm Thiều Quang hơi xấu hổ, nhưng lại không tiện hỏi, lát nữa có nên dừng lại tìm một chỗ mua cho A Viên một chút đồ ăn không?

Nhưng rồi nàng lại không khỏi nhớ tới câu chuyện cười phượng hoàng mập thành đà điểu vừa rồi, cúi đầu nhìn vòng eo tròn vo của A Viên… Thôi bỏ đi, vẫn nên đi tiếp thì hơn.

Mang một khuôn mặt thanh tao cao nhã đi giữa phố phường Trường An phồn hoa thịnh vượng, trong đầu lại nghĩ tới chi phí ăn uống của thực khách và nàng tỳ nữ mập mạp của mình, Thẩm Thiều Quang thật đúng là tục không phân biệt thời gian không phân chia địa điểm.

Không ngờ rằng rẽ tới đầu phố thì lại gặp được cảnh thật sự thanh nhã. Dưới gốc cây tử vi bên đường, vị Lâm thiếu doãn kia đỡ một vị lão phu nhân tóc đã nhuốm hoa râm, Tần ngũ nương và Bàng nhị nương đều ở cạnh đó. Công tử cao lớn khôi ngô, các cô nương lại yêu kiều như hoa, gió đêm thổi qua, ánh đèn lay động, cánh hoa buông xuống, quả thật là đẹp như tranh vẽ.

Thẩm Thiều Quang thấy bọn họ, đương nhiên bọn họ cũng nhìn thấy Thẩm Thiều Quang và Liễu Phong.

Thẩm Thiều Quang không tới gần, chỉ đứng xa xa khẽ cúi chào. Liễu Phong ở phía sau nàng thấy bên cạnh cấp trên có gia quyến trẻ tuổi thì cũng chỉ cúi chào từ xa, sau đó theo Thẩm Thiều Quang đi sang một hướng khác.

“Kia là công tử và cô nương nhà ai?” Giang thái phu nhân cười nói.

“Là Liễu lục sự làm cùng nha môn.” Lâm Yến hòa nhã đáp.

Giang thái phu nhân gật đầu: “Cô nương kia thật là thanh nhã.”

Lâm Yến liếc nhìn ánh đèn đầu phố, mỉm cười, cũng không giải thích cái gì.

Tần ngũ nương cũng chỉ mỉm cười, Bàng nhị nương thì đã bị nụ cười của Lâm Yến làm cho mơ màng ngẩn người.

Giang thái phu nhân nói với Tần ngũ nương và Bàng nhị nương: “Gặp gỡ các cô nương trẻ tuổi như châu như ngọc như các ngươi thật là tốt.”

Tần ngũ nương cười nói: “Ta gặp được thái phu nhân cũng rất vui. Lần trước gặp ngài đã là mấy năm trước rồi.”

Giang thái phu nhân liếc mắt nhìn cháu trai, thế sao? Lại nghi hoặc, hai cô nương vừa nói chuyện là của nhà nào?

“Gió đêm lạnh, ngài đứng lâu cũng mệt rồi, ta đỡ ngài về nhà.” Lâm Yến nhẹ giọng nói với bà nội.

Mấy năm nay chân của Giang thái phu nhân bị lạnh, không đứng được lâu, quả thật bây giờ thấy chân đã nặng trình trịch, mặc dù vẫn còn muốn xem tiếp nhưng rốt cuộc vẫn lực bất tòng tâm, bèn gật đầu: “Cũng được, thế thì về thôi.”

Nhưng cũng không nỡ làm mất hứng đám người trẻ tuổi, mặc dù không nhớ rõ các cô nương này là của nhà nào, nhưng vẫn có thể nhìn ra vài phần tình huống, quả thật A Yến cũng nên cưới vợ rồi: “Để mấy người A Tố đỡ ta về là được rồi, ngươi…”

Lâm Yến đã nói với Tần ngũ nương và Bàng nhị nương: “Không làm lỡ hai vị cô nương ngắm cảnh nữa, cáo từ.”

Tần ngũ nương mỉm cười cáo từ Giang thái phu nhân, Bàng nhị nương cũng đành phải cúi người chào theo.

Giang thái phu nhân mỉm cười gật đầu với hai cô nương: “Các ngươi chơi tiếp đi.”

Lâm Yến đỡ bà nội chậm rãi đi về, đám tỳ nữ tôi tớ đi theo phía sau.

Bước qua cánh cổng lớn đi vào Lâm trạch, Giang thái phu nhân cười nói: “A Yến à, ta thấy hai cô nương kia rất tốt. Nhất là người mặc áo đỏ tươi. Vừa rồi ngươi nói, đó là cô nương nhà ai?”

“Đó là cháu gái của Tần phó xạ.”

Giang thái phu nhân cau mày một cái, nhớ không ra được, chỉ hỏi: “Không kết thân được sao?”

Lâm Yến bị thái độ thẳng thắn của bà nội chọc cười, Giang thái phu nhân cũng cười: “Ngươi chớ chê ta phiền. Ta lúc thì hồ đồ, lúc lại minh mẫn, cũng không giúp ngươi giải quyết được, ngươi lại là một hài tử có chủ kiến. Chuyện cưới vợ này ấy à, ngươi cũng phải để ý một chút. Trong nhà không có nữ nhân quản lý mọi chuyện, cũng không có trẻ con, chỉ có hai bà cháu chúng ta, tĩnh mịch quá…” Nói tới phần sau thì sắc mặt cũng buồn bã theo.

Lâm Yến nhẹ giọng đáp: “Vâng, bà nội.”

Thẩm Thiều Quang đi dạo trên đường một vòng, cảm thấy ngắm cảnh không bằng nghe cảnh, hóa ra hội hoa đăng ở thời Đường cũng chỉ như thế mà thôi, hay là hội hoa đăng Tết Nguyên Tiêu sẽ đẹp hơn? Đẹp cũng không đi xem, hội hoa đăng nhiều người, là một cơ hội tốt để kiếm tiền. Ngươi xem mấy người bán kẹo trên phố hôm nay bán đắt hàng cỡ nào.

Mua cho mình và A Viên mỗi người một chuỗi cầm ăn, Thẩm Thiều Quang cảm thấy thật sự thua kém của nhà mình không ít. A Viên ăn luôn nửa chuỗi còn dư lại của Thẩm Thiều Quang, ăn xong đưa ra đánh giá y hệt.

Thẩm Thiều Quang quay trở lại cửa am, quay đầu hơi cúi người với Liễu Phong ở cách đó không xa coi như cảm tạ, sau đó nhanh chóng đi vào trong, A Viên lại không hòa nhã gì với Liễu Phong, “ầm” một tiếng, đóng lại cửa am.

Thật ra Thẩm Thiều Quang cũng hơi hết cách với vị Liễu công tử kia, thật chẳng khác gì mấy nam sinh đêm nào cũng gửi tin “Ngủ ngon” trên WeChat ở kiếp trước, rốt cuộc thì các ngươi muốn làm cái gì?

Tối mười sáu tháng bảy vẫn còn hội hoa đăng, Thẩm Thiều Quang lại không đi nữa, chỉ ở lại trông tiệm, cho A Viên mấy đồng tiền, để nàng ta tự ra ngoài đi dạo một mình.

18 bánh hoa hồng.jpg

Bởi vì thời gian có hạn nên tối mười sáu trong tiệm chỉ chuẩn bị một ít bánh hoa hồng và ngải oa oa. Khách quen trong phường thấy mở cửa thì liền tới mua, nàng không chuẩn bị được nhiều, chẳng mấy chốc đã bán sạch. Nhìn số tiền trong rổ, Thẩm Thiều Quang cảm thấy, quả nhiên kiếm tiền vẫn vui hơn.

Qua Tết Trung Nguyên, lại qua mấy ngày mưa liên tục, trời dần có ý thu.

Thẩm Thiều Quang mài dao xoèn xoẹt, tới lúc bắt đầu kế hoạch “dán mỡ thu” rồi.

Từ lúc tiểu thang bao vừa bán lần đầu đã thành công, Thẩm Thiều Quang đã nghĩ tới chuyện làm thêm vài món từ thịt lợn.

Có lẽ là từ sau thời Ngụy Tấn, vùng Trung Nguyên thay đổi quá nhiều, loại thịt cổ xưa như thịt lợn trở nên suy thoái, hiện giờ loại thịt phổ biến nhất là thịt dê, đương nhiên thịt trâu cũng tốt – chỉ là quy định đối với việc giết mổ trâu rất lằng nhằng, rồi sau đó nữa là các loại cá.

Là một “người hâm mộ” của thịt lợn, Thẩm Thiều Quang cảm thấy mình phải gánh vác trọng trách chấn hưng thịt lợn, sau đó lại nhớ tới một vị hâm mộ thịt lợn khác cũng có chung ý nghĩ với nàng là Tô học sĩ* – đến thời Tống, thịt lợn còn “giá rẻ như bùn, người giàu không chịu ăn, người nghèo không biết nấu.”

Chà, hay là bắt đầu từ món thịt đông pha?

* Tô Thức, tự Tử Chiêm, một tự khác là Hòa Trọng, hiệu Đông Pha cư sĩ nên còn gọi là Tô Đông Pha, là nhà văn, nhà thơ nổi tiếng Trung Quốc thời Tống. Ông được mệnh danh là một trong Bát đại gia Đường Tống. Đông Pha là tên mảnh đất nhỏ nơi ông ẩn cư ở Hàng Châu.

18 thịt đông pha

 

 

 

Đăng trong Tiệm cơm nhỏ thành Trường An - Bánh Anh Đào

Tiệm cơm – Chương 17

Chương 17: Gặp lại các quý nữ

Thẩm Thiều Quang trở lại am Quang Minh, phát hiện trong am có quý nữ tới dâng hương, cũng là cố nhân – Bàng nhị nương, còn một vị khác nữa chính là cô nương mặc áo màu vàng đất thêu hoa cạnh đình nghỉ mát hôm Đoan Ngọ.

Đoán chừng là đã lạy Phật xong, Viên Giác sư thái đang dẫn bọn họ đi xem bích họa trong viện, kể chuyện Phật.

Đã gặp phải rồi, Thẩm Thiều Quang bèn đi tới chào hỏi.

Viên Giác sư thái cười nói với hai cô nương kia: “Đây chính là Thẩm thí chủ.” Vừa rồi trong lúc uống trà, Viên Giác sư thái đã nhắc tới Thẩm Thiều Quang.

Lại giới thiệu với Thẩm Thiều Quang: “Đây là ngũ nương nhà Tần phó xạ. Bàng nhị nương thì ngươi đã biết rồi.”

Ba người đều mỉm cười, cúi đầu chào nhau.

Viên Giác cười nói với Thẩm Thiều Quang: “Bọn ta vừa mới uống trà hoa lài lần trước ngươi tặng, hai vị thí chủ đều nói là hương vị ngọt ngào thanh nhã, trước kia ngươi cứ nói là ta “quá khen”…” Giọng nói vô cùng thân thiết.

Thẩm Thiều Quang mím môi cười.

Tần ngũ nương mỉm cười quan sát tỉ mỉ Thẩm cô nương này, mặc dù am Quang Minh không lớn nhưng Viên Giác sư thái cũng không phải một người tầm thường. Nghe bà nội nói sư phụ của người này là An Khánh đại trưởng công chúa của triều trước, vị công chúa kia thuở trước làm mưa làm gió trong triều, sau lại đột nhiên nhìn thấu hồng trần, xuống tóc ở Lạc Dương. Viên Giác này là đồ đệ thân cận, từng cùng công chúa đi qua không ít nơi. Thẩm thị này được Viên Giác sư thái coi trọng như vậy, hẳn cũng không tầm thường.

Tần ngũ nương nói: “Trông Thẩm cô nương rất quen, chẳng lẽ đã gặp ở đâu rồi?”

Thẩm Thiều Quang cười nhíu mày một cái, có lẽ là hôm đó ngươi khát, muốn mua nước ô mai của ta chăng? Nhưng ngoài miệng nàng lại cười đáp: “Chắc hẳn đây chính là duyên phận.”

Bàng nhị nương và Thẩm Thiều Quang đúng là anh hùng cùng chung ý tưởng, cũng đoán được là hôm đó gặp nhau ở bờ sông, nhưng lúc đó A Thẩm đang bán đồ ăn, hôm nay lại là “quý nữ của Thẩm thị”, cho nên Tần ngũ nương mới không nhớ ra được.

“Ta từng mấy lần gặp gỡ tứ nương nhà Thẩm thứ sử ở Đặng Châu, chắc tướng mạo của cô nương trong tộc các ngươi có nét giống nhau.”

Quả thật Thẩm Thiều Quang không quen với người trong tộc ở Lạc Dương cho lắm, không biết vị Thẩm thứ sử này là gì của nàng, nhưng có thể khẳng định rằng không phải là thúc bá ruột: “Ta trôi giạt giang hồ, đã lâu không trở về quê, thật sự không biết mình có giống các tỷ muội hay không.” Thẩm Thiều Quang cười nói.

Có thể nhắc tới hoàn cảnh khốn khó của mình một cách ung dung như vậy thì đã không phải người tầm thường, sao Tần ngũ nương có thể không nhìn ra y phục của Thẩm Thiều Quang tuy là tơ tằm Ích Châu nhưng lại đã được giặt đi giặt lại nhiều lần, đã rất cũ, trên đầu cũng chỉ cắm hai cây trâm bạc nho nhỏ.

Cảm giác của Thẩm Thiều Quang về vị Tần ngũ nương này cũng không tệ, đứng trước một nữ tử nghèo khó như mình, Tần ngũ nương đã không hề tỏ ra cao ngạo, cũng không có thái độ cố tỏ ra thương hại thì dường như ngươi và nàng đều giống nhau, dù chỉ là một cử chỉ thôi cũng khiến người ta cảm thấy thoải mái – nhất là nếu so sánh với Bàng nhị nương trước kia.

Nghĩ tới Bàng nhị nương, Thẩm Thiều Quang cười hỏi nàng ta: “Đã lâu không gặp, nhị nương vẫn tốt chứ?” Hôm Đoan Ngọ, có lẽ là bị đám “khuê mật” đâm chọt quá lời, Bàng nhị nương vừa trở về đã dọn đồ quay về nhà luôn, từ đó tới giờ đã một thời gian dài không gặp nàng ta, không hiểu tại sao nàng ta lại chạy tới trước mặt đám quý nữ kia, hơn nữa còn là trước mặt “tình địch”.

Nếu bảo Thẩm Thiều Quang cho ý kiến thì nàng cảm thấy vị Tần ngũ nương này vẫn thích hợp với Lâm thiếu doãn hơn. Chưa nói tới gia thế, chỉ nói tới tính tình thôi, trông vị Lâm thiếu doãn kia có vẻ hơi lạnh lùng, ở tuổi này đã làm tới Kinh Triệu thiếu doãn, chắc hẳn cũng phải là người tâm cơ thâm trầm, Bàng nhị nương thì thanh thuần y như dòng suối, cái gì cũng hiện hết ra mặt, riêng phong cách thôi đã không hợp rồi.

Nhưng lại nghĩ lại, có lẽ như vậy mới hợp thì sao? Anh chàng mặt lạnh tâm cơ thâm trầm sánh đôi cùng một cô nàng xinh xắn ngốc nghếch, cặp đôi thế này tính ra lại rất đáng yêu. Thẩm Thiều Quang vừa nghe Viên Giác sư thái kể câu chuyện “Đại Ý múc biển” trên bức bích họa, vừa nhớ lại mấy tình tiết trong phim tình cảm mà nàng từng xem ở kiếp trước. Nghĩ ngợi một chút, Thẩm Thiều Quang lại muốn thở dài, lúc đó ghét cái lối logic “tam tục” muốn chết, bây giờ muốn xem cũng không xem được nữa.

* “Tam tục” gồm: dung tục (tầm thường), đê tục (thấp kém), mị tục (thô tục).

Tần ngũ nương tới đây là theo lệnh trong nhà, chiều nay và sáng mai còn phải tế bái mỗi buổi một lần nữa, cho nên đêm nay muốn ở lại đây, Viên Giác sư thái mời nàng ta ở cùng mình nhưng Tần ngũ nương không muốn quấy rầy sư thái, vì vậy chỉ đành chấp nhận ở cùng Bàng nhị nương.

Viên Giác cười nói: “Cũng tốt, mấy cô nương các ngươi ở cùng nhau cũng dễ nói chuyện.”

Lại nói: “Buổi tối trong phường có hội hoa đăng, mặc dù không náo nhiệt được như Tết Nguyên Tiêu nhưng cũng có vài chỗ khá đẹp mắt, mấy người các ngươi có thể ra ngoài xem một chút, nhưng phải dẫn người theo.”

Ba người đều cười đáp lời.

Từ lúc xuyên tới đây, Thẩm Thiều Quang vẫn luôn ở trong cung, làm gì đã được thấy hội hoa đăng ở thời đại này thế nào? Mặc dù Tết Trung Nguyên không bỏ lệnh cấm đi đêm như Tết Nguyên Tiêu được đi chơi thoải mái khắp thành suốt đêm mà chỉ có thể đi dạo bên trong phường, nhưng đối với một “tên nhà quê” như Thẩm Thiều Quang thì chừng đó cũng đủ hấp dẫn rồi.

A Viên vẫn còn trẻ con, nghe Thẩm Thiều Quang nói buổi tối sẽ dẫn nàng ta ra ngoài xem hoa đăng thì vô cùng vui mừng: “Những năm trước, cho dù là ngày lễ gì thì Từ nương tử cũng đều không cho ta ra ngoài, chỉ cho ta ở nhà giữ nhà. Ta lén ra ngoài nhìn một cái, sợ bị biết, lại vội vàng chạy về. Có một lần Từ nương tử về nhà lấy đồ bỏ quên, trùng hợp bắt được, cầm chổi đánh ta một trận.”

Thẩm Thiều Quang xoa xoa đầu nàng ta.

A Viên cười nói: “Đau thì không đau lắm, nhưng mấu chốt là bị bỏ đói ba ngày. Lần đó đúng là ta đói chết luôn.”

Thẩm Thiều Quang vỗ lên đầu nàng ta hai cái, khẽ cười. Thật ra nàng cũng từng chịu cảnh bị đánh rồi bị bỏ đói, lúc mới xuyên tới Dịch Đình, xuyên vào một cô bé mười tuổi ốm yếu, ký ức của nguyên thân lại không rõ ràng, cũng không có người thân che chở, một vị khách dị thế mơ mơ màng màng không hiểu rõ hoàn cảnh thì sao có thể không gây ra sai lầm?

Tốt xấu gì thì cũng đã qua rồi.

Thẩm Thiều Quang và A Viên ở bên này nhớ lại những đắng cay mặn ngọt trước kia, mà ở bên kia Tần ngũ nương và Bàng nhị nương lại đang nhắc lại chuyện xưa người cũ.

“Ngươi còn nhỏ tuổi, có lẽ là không còn nhớ rõ. Vị tỷ tỷ nhà họ Thôi kia lớn hơn ta mấy tuổi, tính tình hào sảng phóng khoáng, tướng mạo tài năng đều đứng hàng đầu trong số các cô nương cùng lứa, bọn ta đều không so được với nàng ấy. Sau đó, Thôi thượng thư gặp chuyện, theo quy định gia quyến đều bị cho vào Dịch Đình.” Tần ngũ nương khẽ thở dài một tiếng: “Không ngờ một người vốn ôn hòa như nàng ấy lại sẽ tự sát, thật là…” Tần ngũ nương cân nhắc Bàng nhị nương là muội muội của Thục Phi, dính dáng sâu xa với hoàng gia, cho nên cuối cùng vẫn không nói ra miệng hai chữ “tiết liệt” kia.

Bàng nhị nương tái mặt, vô ý thức gẩy gẩy sợi tua rua trân châu trên chiếc trâm cài trong tay, hạt trân châu trên sợi tua rua có kích thước tương đương với hạt trân châu trên đai lưng chiếc áo lụa mà nàng ta vừa thay, chắc hẳn là cùng một bộ.

“Không nghe nói Lâm… thiếu doãn đính hôn với Thôi cô nương sao?” Bàng nhị nương cắn cắn môi, nói.

“Quả thực là không có, nghe nói chỉ là hai nhà mới quyết định như thế, Thôi thượng thư đã xảy ra chuyện.”

Bàng nhị nương vừa mới thở phào ra một cái thì Tần ngũ nương lại nói: “Nhưng mà rõ ràng Lâm thiếu doãn lại vẫn nhớ thương Thôi tỷ tỷ, nếu không tại sao đến giờ còn chưa cưới nương tử? Mà mấy năm đầu lúc Thôi tỷ tỷ mới đi, Lâm thiếu doãn rất hiếm khi tham gia các loại yến tiệc…”

Bàng nhị nương rũ mắt, ngay cả hoa điền hình hoa sen mới dán trên trán dường như cũng mất đi vẻ sinh động rực rỡ vừa rồi.

Thẩm Thiều Quang dẫn A Viên từ bên này phòng đi ra, loáng thoáng nghe được vài câu, thì ra Lâm thiếu doãn thật đúng là người thâm tình như vậy sao?

 

 

Đăng trong Tiệm cơm nhỏ thành Trường An - Bánh Anh Đào

Tiệm cơm – Chương 16

Chương 16: Cúng tế Tết Trung Nguyên

Qua mồng bảy tháng bảy, chẳng mấy chốc đã đến Tết Trung Nguyên.

Ở thời này, Tết Trung Nguyên là một ngày lễ lớn, tất cả chùa miếu trong thành đều làm pháp hội, hằng năm trong cung đều sẽ tặng chậu Vu Lan đựng các loại kỳ trân dị bảo tới các chùa lớn như Từ Ân, Thanh Long, dân chúng cũng có nhiều người tới chùa cầu phúc. Trước các chùa miếu lớn còn thường có biểu diễn tạp kỹ và truyền giảng Phật giáo, vừa xướng vừa niệm, vô cùng náo nhiệt.

Dù không mấy nổi tiếng thì vào những ngày này, các chùa miếu nhỏ cũng rất bận rộn, ví dụ như am Quang Minh, từ mấy ngày trước đó đã bắt đầu quét dọn sửa soạn, một ngày trước Tết Trung Nguyên, Viên Giác sư thái mặc áo cà sa vô cùng trang trọng, niệm kinh xong thì chuẩn bị chậu Vu Lan chạm trổ hoa sen vàng.

Thẩm Thiều Quang dâng tặng bánh ngọt mật ong do mình tự làm, cũng góp tiền hương khói, lại cùng các tín đồ khác cùng nghe niệm kinh.

16-bc3a1nh-nge1bb8dt-me1baadt-ong.jpg

Làm lễ xong, Viên Giác sư thái cười nói với Thẩm Thiều Quang: “Thật đúng là một món tinh xảo! Lại không giống với bánh hoa Thất Tịch, mấy tầng chồng lên nhau đặt vào trong mâm, thật sự rất đẹp.”

Dù sao Viên Giác sư thái cũng là một người sành ăn, liếc mắt đã nhìn ra bánh ngọt mật ong Tết Trung Nguyên này không giống như bánh hoa Thất Tịch. Bánh hoa Thất Tịch tinh xảo mịn màng, chú trọng khẩu vị, không thể để lâu, cũng không thể xếp chồng lên nhau; bánh ngọt mật ong thì chủ yếu dùng bơ, mật ong, bột mì, hoặc hấp hoặc chiên, xếp thành ba tầng, năm tầng đặt trong mâm, bề ngoài đẹp mắt, mà để vậy sáu, bảy ngày cũng không có vấn đề.

Lại không biết rằng bánh ngọt mật ong này của Thẩm Thiều Quang có quan hệ với món bánh hoa Thất Tịch.

Thời này, đồ cúng ngày lễ là hoạt động truyền thống trong nhà, chuẩn bị đồ thờ cúng là việc bắt buộc của các phu nhân quản lý gia đình, cho nên Thẩm Thiều Quang vốn không có ý định bán cái gì đặc biệt vào ngày lễ này, lại không ngờ rằng có một vị khách từng ăn bánh hoa Thất Tịch tìm tới tiệm đặt làm bánh ngọt, muốn dùng cho lễ cúng bái phụ mẫu ngày rằm tháng bảy.

“Lúc phụ mẫu còn tại thế, trong nhà nghèo khó, chưa từng được ăn những món tinh xảo thế này. Bây giờ buôn bán may mắn kiếm được chút tiền, cho nên cũng muốn cho họ được nếm thử.” Người đặt làm bánh hoa chính là một người trung niên chừng bốn, năm mươi tuổi, mặc áo lụa Hàng Châu, da dẻ hơi ngăm, có lẽ là một thương nhân vùng khác đi buôn ngang qua đây, lúc nói lời này thì sắc mặt hơi buồn bã.

Thẩm Thiều Quang cũng nghiêm túc lên, mặc dù hiểu tấm lòng “con muốn báo hiếu cha mẹ lại không còn”, cũng muốn nhận vụ làm ăn này, nhưng khuyết điểm của bánh hoa thì phải nói rõ cho người ta biết, thứ này không thể để được suốt ba ngày Tết Trung Nguyên, chỉ cần gió thổi qua một cái thì sẽ bị nứt hoặc vụn ra, thậm chí còn có thể bị thiu hỏng.

Vị khách kia cũng biết lời của Thẩm Thiều Quang là thật tình, hơi nhíu mày.

Thẩm Thiều Quang nhớ lại kiếp trước từng làm chuyên đề “Mãn Hán bánh trái* cúng tế người đã khuất”, bèn nói: “Ta sửa đổi công thức một chút, dùng cách hấp, nướng, chiên để làm, chắc là sẽ được thôi.”

* Dẫn từ “Mãn Hán toàn tịch” là bữa tiệc mặn, Mãn Hán bánh trái là bữa tiệc đủ loại món ngọt.

Hôm sau làm vài cái, mời vị khách kia nếm thử, khách gật đầu đồng ý, Thẩm Thiều Quang liền làm “Mãn Hán bánh trái” với món bánh ngọt mật ong thời Đường này. Tất nhiên là không thể nào so được với bánh trái trong cung đình nhà Thanh, kể cả so với tiệc bánh trái của dân thường thời cuối nhà Thanh thì vẫn còn kém xa, nhưng ở vào thời Đường trước đó cả nghìn năm thì cũng đã dư sức làm hài lòng một vị thương nhân muốn hiếu kính phụ mẫu.

Một cái là làm mà hai cái cũng là làm, Thẩm Thiều Quang dứt khoát làm hẳn ba phần, một phần cho vị thương nhân kia, một phần dâng cúng trong am Quang Minh, để trong am thêm chút không khí, cũng là để cảm ơn mấy người trong am, một phần còn lại thì để tới ngày Trung Nguyên đưa tới miếu Thành Hoàng bên ngoài thành để cúng tế.

Kiếp này cha mẹ và đại ca của nguyên thân đều không được nhắm mắt xuôi tay, ngay cả một phần mộ cũng không có, người ta bảo chết thế này thì phải tới miếu Thành Hoàng bên ngoài thành để cúng tế, vì vậy vào ngày Tết Trung Nguyên, Thẩm Thiều Quang dứt khoát đóng cửa cả ngày, sáng sớm đã dẫn theo A Viên thuê xe la đi ra ngoài thành.

Trái ngược với cảnh tượng náo nhiệt của tất cả chùa miếu trong thành, miếu Thành Hoàng vắng vẻ hoang tàn hơn rất nhiều, trên tường phủ đầy rêu xanh, dưới sân lại mọc đầy cỏ dại, nhưng hoa quả bánh trái bày trước bàn thờ lại rất mới mẻ phong phú, chắc hẳn là của vị khách trước để lại, trong điện chỉ có một lão đạo sĩ cùng một đạo đồng lo việc hương khói.

Thẩm Thiều Quang dọn xong trái cây và bánh ngọt, thắp nến thắp hương, đốt tiền giấy, cúng tế tổ tiên và người nhà của nguyên thân, trước khi ra về lại bố thí cho lão đạo sĩ một chút bạc.

Lão đạo sĩ thu tiền, nhẩm một câu đạo hiệu, hành lễ đáp lại: “Thành Hoàng nơi này là linh thiêng nhất trong vùng, chắc chắn sẽ phù hộ cho người mà cô nương cúng tế.” Lão đạo sĩ nhận được không ít bạc của vị khách cúng tế trước đó, cho nên cũng không mấy cảm kích chút bạc của Thẩm Thiều Quang, nhưng lại thích bánh trái mà nàng mang tới cúng tế – lúc còn trẻ hắn từng đi tá túc không ít chùa, kể cả đồ cúng của nhà quyền quý cũng không được chỉnh tề như vậy, chờ hạ lễ rồi chắc chắn phải nếm thử mới được.

Thẩm Thiều Quang mỉm cười đáp lễ, coi như tẫn một phần tâm ý, hy vọng linh hồn bọn họ có thể yên ổn, không phải chịu khổ sở.

Đã ra ngoại thành rồi, Thẩm Thiều Quang dứt khoát bảo người đánh xe chờ một hồi, nàng dẫn A Viên đi dạo một vòng. Đây vẫn là lần đầu tiên nàng được chứng kiến quang cảnh nông thôn ở thời đại này.

Nhà tranh lều cỏ, gà gáy chó sủa, nghĩa địa khói xanh lượn lờ, trên đường có vài người nông dân đi tế tổ về. Y như trong tranh, rất nên thơ, nếu như sống ở đây…

Nước sông cũng thật sự trong vắt, hàng liễu rủ bên bờ sông, cạnh đó là một người mặc áo dài trắng, không xa phía sau có mấy tên nô bộc dắt ngựa đứng chờ. Người kia quay đầu, không ngờ lại là vị sĩ tử cười nhạo Bàng nhị nương trước cửa am Quang Minh lần trước.

Hai người đều ngẩn ra, Thẩm Thiều Quang cúi chào một cái, đang muốn tránh đi thì người kia lại đi tới.

“Cô nương cũng là tới miếu Thành Hoàng cúng tế sao?”

“Phải.” Thẩm Thiều Quang mỉm cười nói.

“Không biết… là cúng tế ai?”

Bây giờ ở Trường An đang thịnh hành kiểu thân thiết với người lạ sao? Thẩm Thiều Quang nhíu mày, người này sở hữu một cặp mắt đào hoa phong lưu, thế nhưng lúc này trong mắt lại thoáng chút phiền muộn bi thương.

“Người thân.” Cuối cùng Thẩm Thiều Quang vẫn trả lời.

“Thế còn công tử tới để cúng tế ai?” Thẩm Thiều Quang cũng hỏi.

“Sư hữu.” Nhưng thật ra là sư phụ và bằng hữu của bằng hữu.

Thẩm Thiều Quang gật đầu. Sẵn lòng ra khỏi thành để tới cúng tế thì chắc hẳn là bằng hữu thân thiết, lại phải chạy tới đây thì chắc hẳn đó là một câu chuyện bi thương. Thẩm Thiều Quang nhớ tới lời trong Kim Lũ Khúc của Cố Trinh Quán “Ta trôi dạt đã lâu. Mười năm qua, ơn sâu nghĩa tận, mất đi sư hữu.” Nhìn lại dáng vẻ hào sảng phóng khoáng của người này trong chiếc áo dài trắng, nàng không thể không đặt cảnh tượng trong đó lên người hắn, dịu giọng xuống: “Vẫn mong bớt bi ai.” Sau đó cúi chào một cái, đội mũ có màn che lên, dẫn A Viên đi.

Nhìn theo bóng lưng Thẩm Thiều Quang, sĩ tử áo trắng nhướng mày mỉm cười, ngày đó thì miệng lưỡi khéo léo, hôm nay lại hiểu lòng người, bây giờ các cô nương đều thú vị thế sao?

Lâm Yến đi tản bộ trong rừng quay trở lại, nhìn theo ánh mắt của bằng hữu.

“Nữ tử cạnh nhà ngươi này rất thú vị đấy.” Bùi Phỉ cười nói.

Lâm Yến nhếch miệng: “Chúng ta đừng nên đàm luận về cô nương nhà người ta thì hơn.”

“Ngươi ấy à, thật là cổ hủ! Sau này nếu tìm được một nương tử khéo ăn khéo nói như vậy thì chẳng phải là bị người ta chê chết luôn sao?”

16 Trung Nguyên tiết

 

 

Đăng trong Tiệm cơm nhỏ thành Trường An - Bánh Anh Đào

Tiệm cơm – Chương 15

Chương 15: Thất Tịch kể chuyện Ngưu Lang Chức Nữ

Trước Thất Tịch chừng mấy ngày, Thẩm Thiều Quang bắt đầu treo biển quảng cáo bánh hoa Thất Tịch ra ngoài cửa.

Thực ra ở thời này còn chưa có bánh nào đặc trưng cho ngày Thất Tịch, buổi tối chủ yếu dùng các loại dưa và trái cây, cũng có thể có thêm bánh ngọt để cầu Chức Nữ, cũng có người muốn ăn cơm La Liễu La. “La Liễu La” nghe nói là con của đức Phật Thích Ca Mâu Ni, còn tại sao lại có liên quan tới ngày mồng bảy tháng bảy thì không ai biết. Đại đa số mọi người đều tế bái “Ngưu Lang” và “Chức Nữ”.

Thẩm Thiều Quang cảm thấy nếu đã “cầu khéo*” thì bánh ngọt với vẻ ngoài khéo léo đẹp đẽ đương nhiên sẽ thích hợp hơn các loại dưa và hoa quả, cho nên nàng mới đẩy mạnh “loạt bánh hoa ngày Thất Tịch”.

* Theo tục cũ, vào tối ngày mồng bảy tháng bảy âm lịch, các cô gái bày hoa quả ở giữa sân, cầu cho Chức Nữ phù hộ mình khéo tay may vá thêu thùa, được gọi là “khất xảo”, gần âm gần nghĩa với “kỳ xảo”, tức cầu cho khéo tay.

Biển quảng cáo bánh hoa được làm từ ván gỗ, mặt trên dán hình vẽ quảng cáo, trên hình vẽ là các loại bánh ngọt, bánh đậu xanh, ngải oa oa, bánh ngọt sơn tra, bánh hoa bông được vẽ vô cùng tỉ mỉ, đủ mọi màu sắc đỏ, hồng, xanh, vàng, trắng, trông rất bắt mắt.

Bên cạnh đề chữ “Bánh hoa Thất Tịch”, cũng chèn thêm hai câu quảng cáo “Sắc hương vị hình đều hoàn mỹ, dùng làm quà tặng cũng đủ ý”, vô cùng đơn giản rõ ràng dễ hiểu.

Nàng còn làm hàng mẫu đặt trong hộp, trưng bày ở vị trí bắt mắt nhất trong tiệm, có bán từ bây giờ, cũng nhận đặt hàng trước.

Thẩm Thiều Quang quả thật thích hợp làm đầu bếp hơn làm họa sĩ, lúc đầu người ta thấy biển quảng cáo thì chỉ tò mò, nhìn thấy sản phẩm thật rồi thì đều động lòng.

Mỗi cái bánh đều nhỏ xinh, không quá mười phân, có hình đóa hoa, cũng có cái hình chữ, có cái thì hình rùa, có cái là nắm bột mềm mại, có cái lại trơn bóng, cũng có cái xốp giòn, màu sắc lại khác nhau, được đặt ngay ngắn bên trong hộp, thế này thì ai nỡ lòng ăn đây?

“Ngài tặng cho ai? Làm quan à… Vậy thì nhất định phải có một bộ Phúc Lộc Thọ Hỉ, nếu là quan văn thì thêm mai lan trúc cúc, người đọc sách rất chú trọng khí tiết của bậc quân tử, thích những cái này, lại thêm hai cái La Liễu La cho hợp với ngày Thất Tịch, mười cái thành một hộp, nhìn qua cũng đẹp mắt.”

“Nếu là bánh cho các phu nhân thì lấy một bộ hình hoa, đều ngọt cả, màu sắc cũng nhẹ nhàng. Ngài nên mua thêm vài cái hình cá hình rùa nữa, bên cạnh các phu nhân còn có đám hài tử mà.”

“Mua cho ngài và tôn phu nhân thôi sao? Thế thì chọn theo khẩu vị đi, lại thêm hai cái Ngưu Lang Chức Nữ.” Thẩm Thiều Quang cười tươi giúp khách hàng chọn xếp hộp bánh. Việc này A Viên không giúp được nàng nên nàng chỉ có thể tự làm lấy.

Người muốn mua bánh mừng lễ Thất Tịch với nương tử nhà mình nghe Thẩm Thiều Quang nói xong thì khuôn mặt hơi đỏ lên, thanh toán tiền đặt cọc, khẽ chào rồi ra về.

Thẩm Thiều Quang xoay cổ, liếm môi, xoa xoa cơ mặt, “bán tiếng cười” đúng là một công việc tốn sức.

A Viên thu dọn một chồng hộp bánh do xưởng giấy đưa tới: “Cô nương, mấy cái hộp này đắt thật đấy, dù sao cũng không ăn được.”

“Không có nó thì không được.” Thẩm Thiều Quang mở một hộp ra đặt bánh vào, hộp này độ bền thì dư mà độ khéo lại không đủ, chỉ có thể dùng tạm.

Thời này đồ ăn được đóng gói hơi đơn sơ quá mức, chưa nói tới chuyện so sánh với các ống bằng ngà điêu khắc tinh xảo, các hộp bằng ngọc chạm trổ khéo léo để đựng mỹ phẩm, các loại dụng cụ bằng vàng bằng bạc chứa hương liệu, các loại hộp từ gỗ đàn hương đựng tơ lụa, mà lấy ví dụ một lĩnh vực gần hơn đi – như là bán rượu, người ta còn dùng bình sứ trắng men xanh để đựng cơ mà.

Đồ ăn thì gần như là không có đóng gói, thật sự không tiện cầm, lấy rơm hoặc cỏ quấn một vòng, sau đó “Ngài cầm lấy”… Thẩm Thiều Quang dùng túi giấy để đựng bánh rán đã khiến người ta chú ý lắm rồi, còn dùng hẳn hộp giấy dày in hoa như vậy rất có thể được xem là “đóng gói quá độ”. Còn như bát ngọc chén vàng mà người giàu có dùng để ăn thì không nằm trong nhóm đang được nhắc đến này.

Bánh rán và ngải oa oa vốn đã được coi là hàng “trung cấp cao cấp”, bánh hoa Thất Tịch này được đóng gói như vậy đã gần như là xa xỉ phẩm, một hộp mười cái có giá tới một trăm văn tiền, không phải số tiền mà người bình thường sẵn sàng chi tiêu.

Để đẩy mạnh tiêu thụ, Thẩm Thiều Quang lại mua thêm rất nhiều que trúc, có thể cắm bánh hoa lên đó, bán lẻ ra, phục vụ đám trẻ con thèm ăn.

Biển quảng cáo được bày ra thì cũng bắt đầu bán bánh hoa, tới một ngày trước lễ cho đến buổi trưa ngày Thất Tịch thì công việc buôn bán đạt đến đỉnh điểm. Có một vị khách đặt hẳn ba mươi hộp “hoa khai tứ quý”, chỉ riêng chuẩn bị cho vị khách này đã mất hơn nửa canh giờ của Thẩm Thiều Quang và A Viên. Thẩm Thiều Quang nhào bột, nặn bánh, ép vào khuôn, A Viên thì giúp đặt bánh vào hộp, sau đó gắn từng tờ danh sách mà Thẩm Thiều Quang đã viết sẵn lên từng hộp. Quy trình làm việc của hai người tuy bận rộn nhưng cũng có thể xem như trôi chảy.

Tới chiều, số khách hàng lớn đặt làm trên chục hộp đã ít đi, phần lớn đều là một hộp hai hộp, thậm chí chỉ có vài ba cái, cũng có đứa bé cầm tiền lẻ tới mua một cái để ăn vặt.

Tiểu hài tử đều có chứng sợ hãi có chọn lọc, thường thường chần chừ trước bàn bày bánh, cảm thấy con hổ này oai phong, bông hoa kia đẹp mắt, lại đều hỏi “Có ngọt không”, Thẩm Thiều Quang vừa bận bịu làm bánh vừa cười nói chuyện với đám tiểu hài tử. Thỉnh thoảng thừa lại một nắm bột mì nho nhỏ, Thẩm Thiều Quang liền thuận tay nặn thành một cái bánh, gọi là “mua một tặng một” cho mấy tiểu hài tử.

A Viên thì không thích nói chuyện với đám tiểu hài tử, Thẩm Thiều Quang tự giải thích cho điều này là “đứa bé lớn chê đứa bé nhỏ”.

Tới chạng vạng, mặt trời lặn về tây, vầng trăng khuyết nhạt màu bắt đầu lộ ra từ đường chân trời, rốt cuộc khách khứa cũng tan hết, Thẩm Thiều Quang thở phào một hơi, hỏi A Viên muốn ăn bánh gì, buổi tối hai người kết hợp trái cây với bánh ngọt đón Thất Tịch.

A Viên thích ăn bánh dẻo, muốn hoa và động vật mỗi loại một bộ, lại thêm một đôi Ngưu Lang Chức Nữ.

Thẩm Thiều Quang cười vui vẻ đồng ý, vừa làm vừa nói chuyện phiếm với A Viên.

Trong nha môn có người tặng Lâm Yến hai hộp bánh, nghĩ tới bà nội thích ăn mấy thứ tinh xảo khéo léo thế này, Lâm Yến liền bỏ lên xe mang về cùng. Nào ngờ lúc tỳ nữ bóc hộp ra bỏ vào đĩa thì phát hiện ra hai cái lớn nhất là “Ngưu Lang” và “Chức Nữ” đã bị đè hỏng do xe xóc nảy.

“Đẹp mắt thế này, tiếc quá.” Tỳ nữ nhẹ nhàng lấy ra một nửa hình Chức Nữ, nhìn một chút, cười nói.

Đang định bày mấy cái còn lại lên đĩa thì lại nghe chủ nhân nói: “Gọi người… Mà thôi, ta tự đi mua hai cái khác bù vào vậy.”

Tỳ nữ ngạc nhiên nhìn hắn, a lang chưa từng trải qua chuyện thế này sao? Sau đó lại nghĩ tới, bánh tinh xảo thế này chắc hẳn là mua về? Làm sao công tử biết bánh này mua ở đâu? Bây giờ cũng đã đóng cửa phường rồi.

Liếc mắt nhìn thấy chữ “Thẩm” nho nhỏ trên hộp, Lâm Yến thản nhiên nói: “Dù sao mấy thứ đón lễ thế này, thiếu một cái sẽ không tốt lắm.” Nói xong thì cầm túi tiền đi ra ngoài.

“Ngưu Lang kia nhìn lén Chức Nữ tắm đã là có ý đồ quấy rối, rất đáng bị phạt đánh, huống hồ còn giấu y phục của Chức Nữ, dùng cái này để bắt Chức Nữ lấy mình, còn không cho Chức Nữ về nhà, đúng là tội ác tày trời, có bị xăm chữ lên mặt thì vẫn còn nhẹ lắm.”

A Viên nghe Thẩm Thiều Quang nói xong thì sửng sốt một lúc, cảm thấy hình như cô nương nói đúng, nhưng mà mọi người không nói như vậy: “Nhưng mà Chức Nữ bằng lòng mà.”

Thẩm Thiều Quang chân thành giáo dục A Viên: “Đây cũng là một triệu chứng của “chứng Tư Đức Ca Nhĩ Ma* tổng hợp”. Tư Đức Ca Nhĩ Ma là một vùng người Hồ, ở đó có một nữ tử bị hung đồ bắt cóc, về sau lại muốn gả cho tên hung đồ đó.”

* Phiên âm chữ Hán của tên “Stockholm”. Hội chứng Stockholm hay quan hệ bắt cóc là thuật ngữ mô tả một loạt những trạng thái tâm lý, trong đó con tin lâu ngày chuyển từ cảm giác sợ hãi, căm ghét sang quý mến, đồng cảm, có thể tới mức bảo vệ và phát triển phẩm chất xấu của kẻ bắt cóc.

“Chức Nữ cũng vậy, nàng bị Ngưu Lang ức hiếp, hoàn toàn không có hy vọng trở lại thiên đình, dần dần ký thác tính mạng của mình cho Ngưu Lang, ăn một miếng cơm, uống một hớp nước, nghe một câu quan tâm, thế là đã có cảm giác Ngưu Lang thật tốt bụng. Thật ra nếu không phải vì Ngưu Lang thì Chức Nữ ở trên thiên đình không biết vui vẻ tự do cỡ nào, một hớp nước một miếng cơm của hắn thì đã đáng là gì?”

A Viên bị Thẩm Thiều Quang nói cho thật sự rối rắm, nghĩ ngợi một chút, hỏi: “Vậy nếu cô nương là Chức Nữ thì sẽ làm sao?”

“Đánh hắn! Đánh tới lúc hắn khóc gọi mẹ mới thôi!” Thẩm Thiều Quang hung dữ đáp lại.

Lâm Yến buông cánh tay đang muốn đẩy cửa, nhớ tới “hà bạch tinh phồn, thiên thượng nhân gian” đầy thương cảm và “ngô đồng thước ảnh, giai kỳ như mộng” đầy lưu luyến trên hộp bánh ngọt, khóe miệng khẽ hiện lên một nụ cười bất đắc dĩ, xoay người đi.

Bên trong cánh cửa thấp thoáng âm thanh: “Nếu đánh không lại thì sao?”

Tiếng trả lời xa xăm: “Một người nếu có lòng thì ắt sẽ tìm được cơ hội…”

15 Thất Tịch tiết

Vừa đọc chương này vừa nghe Châu Thâm hát “Ngưu Lang Chức Nữ”, ai chưa nghe có thể nghe thử xem.